Chàng trai hiểu loài vật nói


De tre sprog


Ngày xưa có một bá tước già, ông ta có một người con trai duy nhất nhưng lại đần độn hết chỗ nói. Một ngày kia ông nói với con:
- Cha đã tìm cách dạy con nghề này nghề nọ nhưng chẳng đi đến đâu cả. Giờ cha sẽ gởi con học nghề ở một ông cụ giỏi nổi tiếng trong vùng, để xem ông ấy có dạy được con không.
Người con trai được đưa tới chỗ ông thợ cả, chàng ở đó một năm, thời gian học nghề hết, chàng trở về nhà. Người cha hỏi:
- Nào, con của cha, con học được gì rồi?
Người con đáp:
- Thưa cha, con học được cách sủa như chó.
Người cha than:
- Trời, khổ thân tôi chưa. Một năm trời con học được có thế thôi à? Được, cha sẽ gởi con đi nơi khác học nghề.
Chàng lại ở đó đúng một năm. Hết hạn anh ta về nhà. Người cha lại hỏi:
- Con trai của cha, con học được gì rồi?
Người con đáp:
- Thưa cha, con học được cách hót như chim.
Người cha nổi giận và nói:
- Trời, con đúng là loài vô dụng, con để tuổi thanh xuân trôi qua thế ư? Con không thấy xấu hổ khi gặp cha hay sao? Được cha sẽ gởi con đi học lần thứ ba, nhưng nếu lần này con cũng không học được gì cả thì cha từ, không nhận cha con nữa.
Người con trai cũng ở đó một năm. Hết hạn chàng về nhà. Người cha lại hỏi:
- Con trai của cha, con học được gì rồi?
Người con đáp:
- Cha kính yêu, một năm lại trôi qua, giờ đây con có thể "oạc, oạc" như ếch kêu.
Người cha nổi giận và cho gọi dân làng tới và nói:
- Nó không phải con tôi nữa, tôi từ nó, các người hãy dẫn nó vào rừng sâu và giết chết nó đi.
Dân làng dẫn chàng vào rừng, nhưng nghĩ thương tình nên họ không giết chàng, họ giết một con mang, lấy mắt và lưỡi đem về trình bá tước.
Chàng trai đi lang thang trong rừng và tới một lâu đài kia, chàng xin được ngủ qua đêm. Chủ lâu đài nói:
- Cũng được, nếu chàng muốn, ngủ ở căn buồng dưới chân lâu đài ấy. Nhưng ta nói trước, cũng nguy hiểm lắm đấy, lũ chó trong buồng rất dữ, thấy người lạ là chúng xô tới, cắn, sủa ầm ỉ lên và rồi cả đàn lao vào cắn xé, ăn thịt.
Những người đứng quanh đều mủi lòng, nhưng cũng chẳng biết làm gì để giúp. Chàng trai thản nhiên nói:
- Cứ dẫn tôi xuống đó, nhưng cho tôi ít thức ăn để ném cho lũ chó hung hăng ấy.
Họ dẫn chàng xuống và đưa cho một ít thức ăn. Khi chàng bước vào buồng, đàn chó không sủa mà lại vẫy đuôi mừng rỡ, chúng ăn một cách ngon lành những gì mà chàng ném cho. Và chúng không hề chạm tới chân tơ kẽ tóc chàng.
Sáng hôm sau chàng tới gặp mọi người, tất cả đều ngạc nhiên khi thấy chàng lành lặn, khỏe khoắn. Chàng nói với chủ lâu đài:
- Đàn chó kể cho chúng tôi nghe về việc tại sao chúng phải sống ở chân lâu đài và hung dữ như vậy. Chúng bị biến thành chó sống ở đây để canh giữ một kho báu chôn dưới chân lâu đài. Chừng nào kho báu kia chưa được khai quật thì chúng chưa được giải thoát. Chúng còn nói cho tôi biết cách khai quật kho báu ấy.
Tất cả mọi người đều hết sức vui mừng, chủ lâu đài nói sẽ nhận chàng làm con, nếu chàng khai quật được kho báu. Chàng lại xuống căn buồng nhốt chó và khai quật kho báu, mang lên một cái rương toàn vàng là vàng, cũng ngay lúc đó không ai nghe thấy tiếng chó sủa nữa và cũng không biết chúng biến đi đâu mất.
Sống ở lâu đài được một thời gian, chàng trai nảy ra ý nghĩ, mình phải đi Rôm cho biết. Dọc đường, chàng đi qua một đầm lầy và nghe thấy tiếng ếch kêu. Chàng lắng tai nghe và biết rằng ở Rôm đang có tang. Tới nơi, chàng biết giáo hoàng mới qua đời. Giáo hội chưa biết chọn ai lên thay, và quyết định sẽ chọn ai có những dấu hiệu như sứ giả nhà trời thì bầu người ấy lên làm giáo hoàng.
Trong lúc giáo hội vừa mới biểu quyyết như vậy thì chàng trai bước chân tới trước cửa nhà thờ nơi giáo hội đang họp. Bỗng có hai con chim bồ câu trắng sà xuống đậu ngay lên hai vai chàng. Tất cả những người trong giáo hội cho đó là sứ giả nhà trời nên liền hỏi chàng có đồng ý làm giáo hoàng không. Chàng còn đang do dự thì chim bồ câu rỉ tai cứ nhận đi. Chàng được mời đi tắm, thay quần áo để làm lễ nhậm chức. Trong lúc tuyên thệ chàng phải hát một bản thánh ca, nhưng chàng đâu có biết hát bài nào, đôi chim câu nhắc cho chàng hát từ đầu đến cuối bài hát.


Dịch: Lương Văn Hồng, © Lương Văn Hồng
I Schweiz levede der engang en gammel greve, som havde en eneste søn, der var så dum, at han slet ikke kunne lære noget. "Der kan ikke komme noget ind i dit tykke hovede," sagde faderen ærgerlig, "det er lige meget, hvad vi så gør ved dig. Nu vil jeg sende dig hen til en berømt lærer, og se om han kan hjælpe på dig." Drengen blev så sendt til en fremmed by til en meget dygtig lærer og blev der et helt år. Så kom han hjem igen, og faderen spurgte: "Hvad har du så lært, min søn?" - "Jeg har lært at forstå hundenes sprog," svarede drengen. "Gud fri mig," råbte faderen, "er det det hele! Det er bedst, du kommer til en anden lærer."
Drengen rejste af sted og kom hjem et år efter. "Hvad har du lært?" spurgte faderen. "Jeg har lært at forstå fuglenes sprog," svarede drengen. "Din dovne slyngel," råbte faderen, "nu har du igen spildt den kostbare tid, og du skammer dig ikke en smule over det. Nu vil jeg sende dig til en tredie lærer, og hvis det ikke hjælper, vil jeg ikke længere kendes ved dig." Drengen blev igen sendt et år bort, og da han kom hjem, spurgte faderen: "Hvad har du nu lært?" - "Nu kan jeg forstå, hvad frøerne kvækker," svarede drengen. Faderen sprang rasende op, kaldte på sine folk og sagde: "Han der står, er ikke mere min søn. Jeg forstøder ham. Før ham ud i skoven og slå ham ihjel." Men da folkene skulle til at dræbe ham, fik de medlidenhed med ham og gav ham lov til at løbe sin vej, og de skar så tungen og øjnene ud af et rådyr og bragte den gamle det.
Ynglingen gik og gik og kom til sidst til et slot, hvor han bad om natteleje. "Hvis du vil overnatte i det gamle tårn, må du gerne," sagde slotsherren, "men jeg advarer dig, for der er fuldt af vilde hunde, som gøer og hyler, og på bestemte tider forlanger de et menneske udleveret, og æder det straks. Hele egnen er opfyldt af sorg og skræk derover, men ingen kan finde på råd." Ynglingen var ikke bange. "Lad mig kun komme op til dem," sagde han, "og giv mig noget kød med, som jeg kan kaste for dem. Mig gør de såmænd ikke noget." Da han stod fast ved sit forsæt, fik han æde med til de vilde dyr, og slotsherren viste ham op i tårnet. Da han kom derop, gøede hundene slet ikke, men logrede venligt og spiste, hvad han gav dem. Den næste morgen kom han til alles forbavselse sund og rask ud af tårnet, og sagde til slotsherren: "Hundene har fortalt mig, hvorfor de bringer så meget fortræd over landet. De er forheksede og vogter en stor skat nede i tårnet. Før den er hævet, falder de ikke til ro, og de har også sagt mig, hvordan man bærer sig ad dermed." Alle, der hørte det, blev meget glade, og slotsherren lovede at antage ham som sit barn, hvis han virkelig kunne hjælpe dem. Han gik så igen ind i tårnet og kom ud med en vældig kiste fuld af guld. Man hørte nu aldrig mere hundenes gøen, og landet var befriet for denne plage.
Nogen tid efter fik ynglingen lyst til at rejse til Rom. På vejen kom han forbi en sump, hvor frøerne sad og kvækkede, og da han hørte, hvad de sagde, blev han helt tankefuld og bedrøvet. Da han langt om længe kom til Rom, var paven lige død, og kardinalerne var i stor tvivl om, hvem der skulle være hans efterfølger. De blev til sidst enige om, at de ville vente med at vælge den ny pave, til Gud gav dem et tegn. I samme øjeblik, de havde bestemt det, trådte den unge greve ind i kirken, og pludselig fløj to snehvide duer hen og satte sig en på hver skulder. Præsterne troede, at det var et tegn fra Gud og spurgte ham, om han ville være pave. Han vidste ikke rigtig, hvad han skulle sige til det, men duerne hviskede til ham, at han skulle sige ja, og det gjorde han da også til sidst. Han blev så salvet og indviet, og nu var det sket, som han havde hørt frøerne i sumpen kvække om. Han måtte derpå stille sig op og messe, og havde ingen andelse om, hvad han skulle sige, men de hvide duer, der sad på hans skuldre, kom ham til hjælp, og hviskede hvert ord til ham.