Chàng trai vui vẻ


Şakacı Birader


Ngày xửa ngày xưa nổ ra một cuộc đại chiến. Khi chiến tranh kết thúc, rất nhiều binh sĩ được giải ngũ. Chàng trai vui vẻ cũng được giải ngũ, và khi đó gia tài chàng mang theo người chỉ là chiếc bánh mì và bốn đồng tiền hình chữ thập. Chàng đã lên đường trở về chỉ có như vậy.
Vào lúc đó thánh Petrus đóng giả thành một người ăn mày nghèo khó ngồi ở bên đường, khi chàng trai vui vẻ đi ngang qua, bèn chìa tay xin của bố thí. Chàng vui vẻ nói:
- Bác ăn mày thân mến, tôi biết cho bác gì đây? Tôi vốn là binh sĩ nhưng nay giải ngũ rồi, gia tài của tôi chỉ là một cái bánh mì và bốn đồng tiền hình chữ thập ra, chẳng còn có gì khác. Nếu những thứ đó hết thì tôi cũng phải ngồi ăn xin như bác thôi. Thế nhưng tôi rất vui lòng cho bác một ít.
Nói rồi, chàng chia chiếc bánh mì làm bốn phần, cho vị môn đồ của Giêsu đó một phần, còn cho thêm một đồng tiền hình chữ thập nữa. Thánh Petrus nói lời cảm tạ rồi bước đi. Tiếp sau đó ông lại biến thành một người ăn mày khác ngồi ở bên đường mà người lính đó phải đi qua. Khi chàng trai vui vẻ đi tới trước mặt, như lần trước, ông lại chìa tay xin của bố thí. Chàng trai vui vẻ lại nói những lời giống như lần trước, lại cho một phần tư chiếc bánh mì và một đồng tiền hình chữ thập. Thánh Petrus cám ơn xong lại bỏ đi, rồi biến thành một người ăn mày khác, lần thứ ba ngồi bên vệ đường để xin chàng trai vui vẻ. Chàng lại cho ông ta phần bánh mì thứ ba và một đồng tiền hình chữ thập. Thánh Petrus cảm tạ. Chàng lại đi tiếp tục. Chàng trai vui vẻ bây giờ chỉ còn lại một phần tư chiếc bánh mì và một đồng tiền hình chữ thập.
Chàng tới một quán ăn bên đường, ngồi ăn hết phần bánh mì còn lại và mua một đồng tiền bia để uống. Ăn uống xong chàng lại lên đường.
Vào lúc đó, thánh Petrus biến thành một người lính giải ngũ giống như chàng, đi ngược lại phía chàng và hỏi:
- Chào anh bạn, anh bạn có thể cho tôi một miếng bánh mì và một đồng để uống bia?
Chàng trai vui vẻ trả lời:
- Giờ thì lấy đâu ra những thứ đó! Tôi là lính đã giải ngũ, chẳng có gì ngoài chiếc bánh mì đen và bốn đồng tiền hình chữ thập. Nhưng gặp ba người ăn mày ở trên đường, tôi đã cho mỗi người một phần tư bánh mì và một đồng tiền hình chữ thập. Bánh mì còn lại tôi đã ăn ở trong quán ăn dọc đường, đồng tiền chữ thập cuối cùng tôi đã mua bia uống rồi. Giờ thì túi rỗng. Nếu anh cũng vậy thì ta cùng nhau đi ăn xin.
Thánh Petrus nói:
- Không, việc ăn xin đó chẳng phải làm đâu! Tôi biết một chút về nghề y, nên cần bao nhiêu tôi cũng có thể kiếm được.
- Tốt thôi! - Chàng trai vui vẻ nói - Tôi chẳng biết gì về nghề y cả, nên tôi chỉ còn cách đi ăn xin một mình thôi.
Thánh Petrus bảo:
- Thì cứ đi cùng. Nếu tôi kiếm được tiền thì chia cho anh một nửa.
Chàng trai vui vẻ nói:
- Thế thì còn gì bằng!
Và cả hai lên đường. Họ tới trước một căn nhà nông dân thì nghe có tiếng than khóc rất to ở trong nhà, bèn bước vào thì thấy một người đàn ông ốm nặng nằm thoi thóp thở, người đàn bà đang than khóc. Thánh Petrus nói:
- Đừng khóc, đừng kêu la nữa. Tôi sẽ giúp chồng bà khỏe trở lại!
Nói xong, thánh Petrus lấy từ túi áo ra một loại dầu cao xoa cho người đàn ông, chỉ trong nháy mắt người bệnh bình phục. Ông ta đứng lên và hoàn toàn khỏe. Người đàn ông và bà vợ rất mừng rỡ, nói:
- Chúng tôi không biết cảm tạ ông thế nào, đưa cho ông những gì?
Nhưng thánh Petrus chẳng muốn lấy gì. Hai người nông dân càng khẩn cầu, thì ông lại càng từ chối. Chàng trai vui vẻ hích vai thánh Petrus một cái và nói:
- Thì nhận một chút thôi. Cũng có lúc chúng ta cũng cần dùng mà.
Cuối cùng thì người đàn bà dắt ra một con cừu, nói với thánh Petrus rằng ông ta nhất định phải nhận cho. Nhưng thánh Petrus vẫn không chịu nhận. Khi đó, chàng trai vui vẻ đẩy ông bạn đường sang một bên và nói:
- Cứ nhận đi, đồ ngốc. Chúng ta cũng cần tới nó!
Thánh Petrus đành phải đồng ý và bảo:
- Được rồi, tôi nhận con cừu này. Thế nhưng tôi không vác nó đâu. Anh muốn có thì anh vác nó đi nhé!
Chàng trai vui vẻ nói:
- Chẳng có vấn đề gì! Tôi sẵn sàng vác nó trên vai!
Nói rồi chàng trai vác con cừu lên vai. Họ lại lên đường, và tới một khu rừng. Bỗng chàng trai vui vẻ cảm thấy con cừu nặng hẳn lên, lại thêm bụng đói, liền nói với thánh Petrus:
- Ở chỗ này thuận tiện đấy! Chúng ta có thể giết cừu làm bữa chén?
- Tôi thấy cũng được đấy. Có điều tôi không thích chuyện bếp núc. Anh muốn nấu ăn thì cầm lấy chiếc nồi này. Trong thời gian đó tôi muốn đi dạo quanh một chút, đợi anh nấu chín sẽ quay lại. Thế nhưng trước khi tôi quay lại, anh chớ có ăn trước đấy, tôi biết đúng lúc mà quay về - Thánh Petrus nói.
- Anh cứ đi đi, tôi đã biết cách nấu ăn mà, nấu ngon là đằng khác.
Thế là thánh Petrus ra đi, chàng trai vui vẻ giết cừu, nhóm lửa, cho thịt cừu vào nồi, rồi nấu.
Nhưng thịt cừu nấu xong mà vị môn đồ của chúa Giêsu vẫn chẳng quay lại. Chàng trai vui vẻ mang thịt cừu trong nồi ra, thái nhỏ. Bỗng chàng nhìn thấy quả tim cừu.
- Nghe đồn cái món này ngon nhất! - chàng trai nói và thử nếm một chút, nhưng rồi cứ nếm mãi cho tới khi ăn hết cả quả tim cừu.
Cuối cùng thì thánh Petrus cũng quay trở lại và bảo:
- Anh có thể ăn cả con cừu, tôi chỉ muốn ăn tim cừu thôi. Anh lấy nó cho tôi nhé!
Chàng trai vui vẻ bèn cầm dao và dĩa, lật đi lật lại thịt cừu, ra dáng như tìm kỹ lưỡng, nhưng làm sao có thể tìm thấy tim cừu! Cuối cùng chàng đành phải nói:
- Không có tim cừu!
- Không có thì đi đâu rồi? - Môn đồ của Giêsu hỏi.
- Điều đó tôi không biết. Anh xem, chúng ta đúng là hai đứa ngốc, ra sức tìm tim cừu mà chẳng tìm ra. Kỳ thực con cừu này không có tim!
- Ồ! Thật kỳ lạ! Mọi động vật đều có tim, vì sao con cừu này lại không có?
- Không có, đúng là không có, người anh em ạ! Cừu không có tim. Anh chỉ cần nghĩ kỹ thì sẽ nghĩ ra rằng: cừu đúng là không có tim mà!
Thánh Petrus nói:
- Được rồi! Việc này xem như xong! Đã không có tim thì thịt cừu tôi chẳng ăn tí nào đâu, anh ăn một mình hết đi nhé!
- Tôi chẳng ăn hết đâu! Số còn lại sẽ cho vào bao mang theo! - Chàng trai vui vẻ nói xong và ăn hết nửa con cừu, số còn lại thì cho vào trong chiếc bao.
Họ tiếp tục lên đường. Thánh Petrus lúc đó dùng phép thuật tạo ra một con sông lớn chắn ngang đường đi buộc họ phải vượt qua con sông đó. Thánh Petrus nói:
- Anh sang trước nhé!
- Không, anh sang trước! - Chàng trai vui vẻ trả lời, trong bụng nghĩ rằng: "Nếu nước sông rất sâu thì mình chẳng qua sông nữa!"
Khi đó thánh Petrus đã lội qua sông, nước sông chỉ ngập đến đầu gối ông ta. Thế là chàng trai vui vẻ cũng muốn lội qua, nhưng nước sông bỗng dềnh lên ngập cho tới tận cổ của chàng. Thế là chàng trai kêu lên:
- Người anh em, mau cứu tôi với!
Thánh Petrus nói:
- Anh có thừa nhận là anh đã ăn tim con cừu đó hay không?
- Không! - Chàng trai vui vẻ đáp: "Tôi chưa từng ăn tim cừu!
Khi đó nước lại tiếp tục dềnh lên, ngập tới cằm của chàng trai vui vẻ, khiến chàng ta kêu toáng lên:
- Mau cứu tôi với, người anh em!
Thánh Petrus hỏi lại một lần nữa:
- Anh có thừa nhận là đã ăn tim con cừu đó hay không?
- Không, tôi chưa từng ăn tim cừu! - Chàng trai trả lời.
Nhưng thánh Petrus không muốn dìm chàng trai chết đuối, nên đã cho nước sông rút xuống để chàng trai qua được sông.
Họ lại tiếp tục lên đường và tới một vương quốc, ở đó họ hay tin, công chúa đang thập tử nhất sinh. Chàng trai vui tính nói với thánh Petrus:
- Ô chà, người anh em! Mẻ lưới này khá đấy. Làm cho công chúa khỏe lại thì chúng ta suốt đời no đủ.
Thấy thánh Petrus vẫn thản nhiên, chàng trai vui tính thúc giục:
- Nào, rảo cẳng lên một chút, người bạn hảo tâm. Chúng ta phải tới đó đúng lúc mới được.
Thánh Petrus vẫn đủng đỉnh, mặc cho chàng trai vui tính luôn hối thúc. Rồi họ hay tin, công chúa đã chết trên giường bệnh. Chàng trai vui vẻ nói:
- Đủng đỉnh như anh làm hỏng việc rồi.
Thánh Petrus đáp:
- Cứ bình tĩnh nào, tôi không những chữa cho con bệnh khỏe mạnh lại, mà còn có thể làm người chết sống lại.
- Nếu làm được việc ấy thì anh làm thử xem sao. Làm được thì nửa giang sơn này sẽ là của chúng ta.
Cả hai đi vào hoàng cung. Bầu không khí đau thương tràn ngập nơi đây. Thánh Petrus tâu với nhà vua, rằng ông có thể làm cho công chúa sống lại. Thánh Petrus được dẫn tới phòng của công chúa. Ông bảo:
- Hãy mang cho tôi một nồi nước!
Khi nồi nước được mang tới, ông bảo mọi người lui ra ngoài, chỉ chàng trai vui tính được ở lại. Rồi ông cắt rời chân tay khỏi thân và cho tất cả vào trong nồi. Ông nhóm lửa đun, đun cho tới mức thịt rã khỏi xương. Rồi ông nhặt xương ra, xếp chúng đúng theo thứ tự cơ thể con người. Xếp xong, ông bước lên phía trước một bước, nói ba lần:
- Nhân danh tất cả các thánh thần, người chết hãy đứng dậy!
Khi lời nói lần thứ ba vừa dứt thì công chúa trẻ đẹp đứng bật dậy. Nhà vua hết sức vui mừng nói với thánh Petrus:
- Nếu khanh muốn, trẫm sẵn sàng chia cho khanh nửa giang sơn này!
Nhưng thánh Petrus lại nói:
- Thần không đòi hỏi gì cả.
Anh chàng vui tính nghĩ: "Người đâu sao lại ngốc đến thế" và hích vai đẩy thánh Petrus sang bên và nói:
- Sao lại có người ngu đến thế. Anh không cần, nhưng tôi thì cần!
Thánh Petrus chẳng nói năng gì cả. Nhà vua thấy người bạn cùng đi lại muốn được một cái gì đó, bèn bảo viên tổng quản cho người đó một bao vàng đầy ắp.
Cả hai lại tiếp tục lên đường. Khi tới một khu rừng, thánh Petrus nói với chàng trai vui tính:
- Giờ chúng ta chia nhau vàng đi!
Chàng trai vui tính đáp:
- Đúng đấy, chúng ta chia vàng đi!
Thánh Petrus đem vàng ra chia làm ba phần. Chàng trai vui vẻ nghĩ: "Đầu ông này có vấn đề rồi. Chia tất cả ra làm ba phần trong khi chỉ có hai người!
Thánh Petrus nói:
- Tôi đã kiểm tra rất cẩn thận, một phần dành cho tôi, một phần dành cho anh, một phần dành cho người đã ăn tim cừu!
- Ồ, tôi là người đã ăn tim cừu. - Chàng trai vui tính nói và vơ luôn phần vàng đó.
Thánh Petrus nói:
- Sao lại có chuyện ấy nhỉ? Cừu không có tim mà.
- Ái chà chà, người anh em ơi, anh nghĩ đi đâu thế? Cừu cũng có tim như bất kỳ mọi con động vật khác. Tại sao chỉ riêng con cừu này là không có tim?
- Được, cứ coi như là thế đi. Anh cứ giữ lấy phần vàng đó. Thế nhưng từ giờ thì tôi sẽ đi đường tôi mà không đi cùng với anh nữa - Thánh Petrus nói.
- Anh bạn hảo tâm, tùy ý anh thôi. Chúc anh thượng lộ bình a - Anh chàng vui tính đáp.
Thánh Petrus rẽ vào đường khác và tiếp tục cuộc hành trình của mình. Anh chàng vui tính nghĩ:
- Anh ta đi đường khác lại là tốt. Đúng là một ông thánh kỳ lạ, tiền có, nhưng không biết cách tiêu tiền, tiêu xài phung phí, để rồi lại tay không.
Anh chàng vui tính lên đường, anh tới vương quốc kia thì nghe rằng công chúa vừa mới qua đời. Chàng nghĩ: "Chà, đó cũng là dịp may! Ta sẽ làm cho nàng sống lại. Thế nào ta cũng được thưởng hậu hĩnh!." Thế là chàng tới hoàng cung tuyên bố là mình có thể làm người chết sống lại. Vua nghe tin, có một người lính giải ngũ có thể làm người chết sống lại. Vua đoán, người đó có thể là anh chàng vui tính nên bán tín bán nghi. Nhà vua bèn hỏi quần thần. Các quan tâu rằng, nhà vua cứ thử xem, vì đằng nào thì công chúa cũng đã chết.
Chàng trai vui tính sai mang cho mình một nồi nước. Chàng bảo mọi người lui ra ngoài. Chàng cắt chân tay khỏi thân, rồi cho tất cả vào nồi. Chàng nhóm lửa nấu như khi trước chàng thấy thánh Petrus làm. Chàng nấu cho đến khi thịt rã khỏi xương thì vớt xương ra và xếp chúng lại. Nhưng vì chàng không biết cách xếp, nên xương nằm không theo đúng thứ tự. Khi chàng bước lên một bước và nói:
- Nhân danh tất cả các thánh thần, người chết hãy đứng dậy!
Chàng nói thế ba lần liền, nhưng đống xương xếp hình không động đậy. Chàng trai vui vẻ thốt lên:
- Cô gái kia, cô gái kia hãy đứng dậy mau không thì có chuyện bây giờ!
Chàng vừa dứt lời thì thánh Petrus dưới dạng một người lính đã giải ngũ xuất hiện và nói:
- Quân vô thần, mi làm gì thế này, xương xếp lẫn chỗ thì làm sao người chết có thể đứng dậy được!
Chàng trai vui vẻ đáp:
- Ôi, anh bạn hảo tâm, tôi đã trổ hết tài mình rồi đấy!
- Lần này thì tôi giúp để anh được thoát nạn, nhưng tôi báo cho anh biết, nếu anh còn tiếp tục làm việc này thì sẽ gặp bất hạnh đấy. Anh không được đòi vua thưởng hay nhận tiền công.
Nói xong, thánh Petrus xếp xương theo đúng thứ tự, rồi nói ba lần câu phù chú:
- Nhân danh tất cả các thánh thần, người chết hãy đứng dậy!
Lời nói vừa dứt, công chúa đứng lên, dáng khỏe mạnh, xinh đẹp. Thánh Petrus biến mất qua đường cửa sổ. Chàng trai vui tính rất mừng, vì ông việc kết thúc tốt đẹp, nhưng vì đã hứa không nhận thưởng nên chàng bực tức, nghĩ bụng: "Mình cũng không sao hiểu nổi con người này, tay này thì đưa, nhưng lại lấy nó đi bằng tay khác!"
Nhà vua hỏi chàng trai vui vẻ muốn thưởng gì, nhưng vì không được nói muốn lấy gì, nên chàng ra hiệu ám chỉ, nhà vua sai người mang tới cho chàng đầy túi vàng. Chàng nhận và vác túi vàng lên vai đi. Vừa mới ra tới cổng hoàng cung chàng đã bị thánh Petrus chặn hỏi:
- Sao lại như thế nhỉ? Tôi cấm anh không được nhận bất cứ một thứ gì, sao anh lại nhận đầy một túi vàng?
Chàng trai vui vẻ đáp:
- Họ bắt phải lấy thì tôi biết làm thế nào!
- Tôi nói cho anh biết, nếu việc này tái diễn thì anh sẽ khốn đốn đấy!
- Ồ, người anh em ơi, đừng lo! Giờ có vàng đầy túi thì cần gì phải làm cái việc rửa xương kia.
Thánh Petrus bảo:
- Vàng rồi cũng sẽ hết. Để anh không tái phạm, tôi cho anh một phép lạ, anh ước gì thì cái đó có ngay ở trong túi. Chúc anh hạnh phúc, anh sẽ không gặp lại tôi đâu.
- Cầu chúa phù hộ cho anh! - Chàng trai vui vẻ nói, trong bụng thầm nghĩ: "Đúng là anh chàng kỳ quặc. Anh đi thì tôi mừng, chứ đi theo anh làm gì."
Chàng trai vui tính vác túi vàng đi đây đó mà chẳng nghĩ tới phép lạ của chiếc túi. Chàng tiêu pha vung vẩy như lần thứ nhất. Khi chỉ còn bốn xu (dập hình chữ thập) thì cũng là lúc chàng bước vào quán ăn. Chàng nghĩ: "Thì tiêu hết quách đi!" Chàng tiêu hết một xu cho ăn, hết ba xu cho rượu.
Trong lúc chàng vui tính đang ăn uống thì chàng ngửi thấy mùi ngỗng quay. Nhìn quanh, chàng thấy chủ quán đang quay hai con ngỗng. Chàng chợt nhớ tới lời dặn của người bạn đường: cầu mong thứ gì thì thứ đó có ở trong túi. Chàng nghĩ: "Ái chà, mình muốn có hai con ngỗng quay kia." Rồi chàng ra ngoài, đứng trước cửa quán nói:
- Tôi cầu mong, hai con ngỗng quay kia bay vào trong túi.
Chàng vừa nói xong, mở chiếc túi ra thì thấy hai con ngỗng quay đã ở trong túi. Chàng nói:
- Trời, phải thế chứ. Đúng là mong được, ước thấy!
Chàng ra ngoài đồng cỏ, lấy ngỗng quay ra ăn. Trong lúc chàng đang ăn ngon miệng thì có hai người thợ bước tới, họ nhìn chằm chằm vào con ngỗng quay mà chàng chưa động đến. Chàng trai vui vẻ nghĩ: "Mình ăn một con đã no nê rồi." Chàng gọi hai người kia và nói:
- Lấy con ngỗng quay này mà ăn. Ăn thì nhớ chúc sức khỏe tôi nhé!
Bọn họ cám ơn chàng, mang ngỗng quay vào trong quán, gọi rượu và bánh mì, rồi bày ngỗng ra bàn để ăn. Vợ chủ quán thấy ngỗng quay thì nói với chồng:
- Hai người này có ngỗng quay, ông thử xem ngỗng quay trong lò của nhà mình còn không!
Chồng vào xem lò quay ngỗng, thấy chỉ có lò không, bèn hô hoán:
- Quân ăn trộm, chúng bay định ăn không ngỗng quay à, trả tiền ngay mới được ăn, không thì đánh cho một trận nhừ tử bây giờ!
Hai người khách đáp:
- Chúng tôi không phải dân ăn trộm. Con ngỗng quay này do người lính ngồi trên đồng cỏ đưa tặng chúng tôi.
- Đừng có hòng qua mặt ta nhé! Người lính có tới đây, nhưng đó là con người thật thà. Chính mắt ta thấy anh ta tay không ra khỏi quán. Bọn mày chính là quân ăn trộm. Trả tiền mau!
Bọn họ không có tiền trả, chủ quán cầm gậy phang đuổi họ ra khỏi quán.
Chàng trai vui vẻ vẫn tiếp tục cuộc hành trình, chàng tới một vùng có tòa lâu đài to đẹp, gần đó lại là một quán trọ. Chàng bước vào quán trọ tính thuê giường ngủ qua đêm, chủ quán trọ từ chối và nói:
- Ở đây hết chỗ rồi, toàn khách sang trọng thuê.
Chàng trai vui vẻ nói:
- Kỳ lạ thật, khách sang trọng mà lại không ở trong lâu đài to đẹp!
Chủ quán đáp:
- Nó có lý do của nó. Ai vào đó ngủ đêm, khó mà sống tới sáng hôm sau.
Chàng trai vui vẻ nói:
- Nếu đã có người dám thử thì tại sao tôi không dám thử nhỉ!
Chủ nhà trọ nói:
- Cẩn thận nào, mất mạng như chơi đấy!
- Làm sao mà chết ngay được! Cứ đưa chìa khóa và đồ ăn, đồ uống cho tôi đi.
Thế là chủ quán đưa đồ ăn, đồ uống cho chàng. Chàng trai vui tính bước vào lâu đài, lấy đồ ra ăn uống ngon lành. Ăn xong chàng thấy buồn ngủ, vì không có giường nên chàng nằm ngay trên nền nhà, rồi thiu thiu ngủ. Đêm khuya chàng bị thức giấc bởi tiếng huyên náo. Chàng trấn tĩnh nhìn quanh thì thấy có chín con quỷ đang ở trong phòng. Chúng cầm tay nhau nhảy múa thành vòng tròn quây lấy chàng. Chàng vui vẻ nói:
- Bọn mày muốn nhảy bao lâu cũng được, nhưng không được xán gần lại ta!
Bọn quỷ cứ thắt dần vòng tròn, cái chân bẩn thỉu của chúng tiến sát người chàng. Chàng trai vui vẻ quát lớn:
- Để cho ta yên nào, quân ma quỷ!
Nhưng chúng càng náo loạn làm cho chàng nổi cáu và quát:
- Hừm, tao sẽ làm cho chúng mày phải im lặng!
Chàng cầm ghế phang túi bụi vào bọn chúng, nhưng làm sao một người có thể chống lại chín. Chàng đánh phía trước, thì những con phía sau xông vào túm tóc chàng mà giật.
- Đồ quỷ sứ chúng bay. Tao hết sức khó chịu với chúng mày! Đợi mà xem! Cả chín con quỷ vào ngay trong túi!
Chàng thét lên, khi lời chàng vừa dứt thì cả chín con quỷ đã ở trong túi, chàng thắt nút lại và ném chiếc túi vào một góc. Giờ gian phòng trở lại yên tĩnh. Chàng trai vui vẻ nằm ngủ một giấc cho tới khi trời sáng rõ. Lúc đó, chủ nhà trọ và nhà quý tộc chủ lâu đài sang xem có chuyện gì xảy ra không. Nhìn thấy chàng trai vui vẻ tươi cười họ hết sức ngạc nhiên và hỏi:
- Bọn quỷ không làm gì được anh à?
- Sao lại không làm được gì? Giờ thì cả chín con quỷ đang ở trong túi của tôi. Từ nay các vị có thể yên tâm sống trong lâu đài, không còn có con quỷ nào tới đây náo loạn nữa.
Vị quý tộc cám ơn và thưởng tặng chàng nhiều thứ, đồng thời mời chàng ở lại lâu đài, hứa sẽ chu cấp cho chàng đầy đủ. Chàng trai vui vẻ đáp:
- Không, tôi quen sống nay đây mai đó rồi, tôi chỉ muốn lên đường.
Chàng trai vui vẻ lên đường. Chàng tới một lò rèn, đặt chiếc túi lên cái đe thợ rèn, nhờ bác thợ rèn cùng phó nhỏ nện búa vào cái túi. Họ ra sức nện búa, bọn quỷ trong tú la ó om xòm. Lát sau chàng mở túi xem thấy tám con quỷ đã chết. Con thứ chín còn sống, nó lách chui ra khỏi túi, chạy về địa ngục.
Ngay sau đó chàng trai vui tính lại lên đường đi chu du thiên hạ. Ai mà biết được chàng đi những đâu thì tha hồ mà kể.
Thời gian trôi mau, giờ đây chàng đã là một ông già, tới gặp một vị ẩn sĩ nổi tiếng vì lòng thương người và nói:
- Tôi đã đi khắp bốn phương. Giờ chỉ còn mong được lên thiên đường.
Vị ẩn sĩ đáp:
- Trên đời chỉ có hai con đường, đường xuống địa ngục thì rộng và dễ đi, đường lên thiên đường vừa hẹp, vừa lại khó đi.
Chàng trai vui vẻ nghĩ bụng: "Chỉ có thằng ngốc mới đi con đường vừa hẹp, vừa khó đi." Chàng lên đường, chọn con đường rộng, dễ đi mà đi. Cuối cùng chàng tới trước cánh cổng lớn đen xì - cánh cổng địa ngục. Chàng trai vui vẻ gõ cổng. Người canh cổng ngó ra xem ai. Hắn giật mình hoảng sợ khi nhìn thấy chàng trai vui vẻ, vì hắn là con quỷ thứ chín trốn được ra khỏi chiếc túi của chàng. Hắn vội cài then cổng cho chặt, rồi chạy lại chỗ con quỷ đầu đàn và nói:
- Ở bên ngoài có một tên vác túi muốn vào. Đừng cho nó vào nhé. Nó có thể hóa phép nhét cả địa ngục vào trong cái túi. Nó đã từng giam tôi ở trong cái túi đó và đập cho tôi một trận đến nhũn người ra.
Chàng trai vui tính được thông báo, phải đi khỏi nơi này. Chàng nghĩ bụng: "Nếu họ không thích cho mình vào thì mình lên thiên đường tìm một chỗ trú chân vậy." Chàng quay lại và tiếp tục lên đường. Chàng đi thẳng tới cổng trời và gõ cổng. Đúng lúc thánh Petrus ngồi canh cổng. Chàng trai vui tính nhận ra ngay và nghĩ: "Mình gặp đúng người bạn cũ. Chắc mọi việc sẽ tốt đẹp thôi!."
Nhưng thánh Petrus nói:
- Ta thật không sao tin được là anh lại tới thiên đường!
- Người anh em, cho tôi vào nhé! Tôi mong có một nơi để đi về. Nếu như họ tiếp nhận cho tôi vào địa ngục thì tôi đã chẳng phải lên đây!
- Không! Anh không được vào! - Thánh Petrus nói.
- Được thôi! Nếu anh không muốn cho tôi vào thì anh nhận lại chiếc túi của anh vậy! Từ nay về sau, tôi chẳng cần gì ở nơi anh nữa! - chàng trai vui vẻ nói.
Thánh Petrus bảo:
- Thế thì đưa nó lại đây!
Chàng trai vui vẻ đưa trả chiếc túi qua hàng rào của thiên đường. Thánh Petrus nhận lấy, rồi đem treo chiếc túi ở bên ghế ngồi của mình. Khi đó, chàng trai vui vẻ mới nói:
- Bây giờ tôi mong, chính tôi ở trong chiếc túi đấy!
Sau tiếng "ào ào" là chàng đã vào được trong thiên đường và chui vào trong túi. Thánh Petrus cũng chỉ còn cách là để cho chàng ở lại bên trong đó mà thôi!


Dịch: Lương Văn Hồng, © Lương Văn Hồng
Bir zamanlar güçlü bir kralı olan bir ülkede savaş sona erince pek çok asker terhis oldu. Şakacı Birader de terhis oldu, ama ödül olarak bir parça tayın ekmeğiyle dört metelik aldı ve bununla yola çıktı. Bu sırada Aziz Petrus da dilenci kılığında yola düştü ve Şakacı Biraderle karşılaştığında ondan para dilendi.
"Zavallı dilenci, sana ne versem ki? Ben askerdim, şimdi terhis oldum; yanımda bir parça tayın ekmeğinden ve dört metelikten başka bir şey yok. Bunlar bitince ben de senin gibi dileneceğim. Ama yine de sana biraz vereyim" diyerek ekmeği dörde böldü Şakacı Birader. Bir parçasını ve bir meteliği Aziz Petrus'a verdi.
Aziz Petrus teşekkür ederek yoluna devam etti ve bu kez başka bir kıyafetle, ama yine dilenci olarak Şakacı Biraderin yoluna çıktı. Karşılaştıklarında ondan yine para istedi. Şakacı Birader geçen seferki sözlerini tekrarladı ve ona ekmeğinin ikinci dilimiyle ikinci meteliğini verdi. Aziz Petrus teşekkür ederek tekrar yola koyuldu.
Üçüncü kez kıyafet değiştirerek yine Şakacı Biraderin karşısına dikilip onunla konuştu. Şakacı Birader ona ekmeğin üçüncü dilimiyle üçüncü meteliğini verdi. Aziz Petrus teşekkür etti. Şakacı Birader yoluna devam etti, ama artık yanında son bir dilim ekmekle bir metelikten başka bir şey kalmamıştı. Bununla bir hana gitti; ekmeğini yedi ve bir metelik karşılığında da bira ısmarladı.
Daha sonra tekrar yola koyuldu. Aziz Petrus yine farklı bir kıyafetle onun karşısına çıkarak, "Merhaba arkadaş, bana bir parça ekmek ve bira içebilmem için bir metelik verir misin?" diye sordu.
"Bunu nereden bulayım ki?" diye cevap verdi Şakacı Birader ve ekledi: "Ben askerliğimi bitirdim; karşılığında bir tayın ekmeğiyle dört metelik aldım. Şimdiye kadar üç dilenciyle karşılaştım; her birine birer parça ekmekle birer metelik verdim. Son parça ekmeği kendim yedim ve son meteliğimle de bira içtim. Şimdi hiçbir şeyim kalmadı. Sende de bir şey kalmamışsa birlikte dilenmeye çıkabiliriz."
"Olmaz. Buna gerek yok. Ben doktorluktan anlarım, o sayede ihtiyacım olan parayı fazlasıyla kazanabilirim" diye cevap verdi Aziz Petrus.
"Öyle mi? Ben bu işlerden anlamam; o zaman tek başıma dilenmem gerekecek" dedi Şakacı Birader.
"Sen benimle gel, ne kazanırsam yarısı senin olsun" dedi Aziz Petrus.
"Kabul" dedi Birader ve birlikte yola çıktılar. Derken bir çiftlik evine vardılar, içerden yakınmalar ve bağrışmalar geliyordu. İçeri girdiler. Bir adam ölmek üzereydi ve karısı hüngür hüngür ağlıyordu. "Ağlayıp sızlanmayı bırak, ben onu iyileştiririm" dedi Aziz Petrus. Cebinden çıkardığı bir sabunla adamı iyileştirdi. Hasta ayağa kalktı; sağlığına kavuşmuştu.
Karı kocanın sevincine diyecek yoktu. "Sizi nasıl ödüllendirelim? Size ne verelim?" diye sordular. Ama Aziz Petrus hiçbir şey almak istemedi. Çiftçilerin tüm ısrarlarına rağmen bir şey almadı. Şakacı Birader Aziz Petrus'a bir dirsek atarak, "Al bir şey yahu, buna ihtiyacımız var" dedi.
Sonunda çiftçi kadın bir kuzu getirerek Aziz Petrus'a bunu almasını söyledi, ama o reddetti. Bunun üzerine Şakacı Birader onu bir yana çekerek, "Al şunu be, aptallık etme, buna ihtiyacımız var" dedi.
Aziz Petrus da, "Tamam, kuzuyu alıyorum, ama onu taşı- mam; senin taşıman gerekecek" dedi. Şakacı Birader "Önemli değil, taşırım" diye cevap verdi ve hayvanı sırtına aldı. Sonra oradan ayrılarak bir ormana daldılar. Orada kuzuyu taşımak Şakacı Birader'e zor geldi.
Karnı acıkmıştı, Aziz Petrus'a "Bak, burası güzel bir yer, şu kuzuyu pişirip yiyelim" dedi. "Olur" diye cevap verdi Aziz Petrus. "Ama ben yemek pişirmekten anlamam; sen pişireceksen al şu kazanı. Et pişinceye kadar ben şöyle bir tur atayım. Ben dönünceye kadar ve et tam pişmeden sakın yemeye kalkışma. Vaktinde dönerim."
"Git sen. Ben iyi yemek yaparım" dedi Şakacı Birader.
Aziz Petrus gittikten sonra Şakacı Birader kuzuyu kesti, ocağı yaktı, eti kazanın içine koydu ve pişirdi. Ama kuzu bir türlü pişmedi. Aziz Petrus dönmeyince Şakacı Birader kuzuyu kazandan alıp kesti, "En iyi yeri burası!" diyerek yüreğini çıkarıp önce bir parçasını, sonra tamamını afiyetle yedi.
Nihayet Aziz Petrus çıkageldi ve "Kuzunun hepsini sen ye, bana sadece yüreği yeter" dedi.
Şakacı Birader eline bir bıçak ve çatal alıp çabuk çabuk kuzuyu kesmeye başladı, ama yüreğini sözüm ona bir türlü bulamadı. Sonunda "Yüreği yok bunun" dedi.
"O da ne demek oluyor?" diye sordu Aziz Petrus. "Bilmiyorum" diye cevap verdi Şakacı Birader. "Ama ikimiz de deliler gibi kuzunun yüreğini arıyoruz; oysa onun yüreğinin olmadığı hiç aklımıza gelmedi!"
Haydaa, bunu da yeni duydum; her hayvanın yüreği vardır, kuzunun niye olmasın ki?" dedi Aziz Petrus.
"Valla kardeş, kuzunun yüreği yok işte! Bir düşün senin de aklın yatacak. Gerçekten yüreği yok" diye cevap verdi Şakacı Birader.
"Yüreği yoksa başka et istemem ben, hepsini sen ye" dedi Aziz Petrus. "Yiyemediğimi sırt çantama koyarım" diye söylenen Şakacı Birader kuzunun yarısını yedikten sonra öbür yarısını çantasına attı.
Böylece yollarına devam ettiler. Derken Aziz Petrus yollarının üzerine büyük bir dere çıkarttı; bunun üzerinden geçmeleri gerekiyordu.
"Sen önden git!" dedi Aziz Petrus. "Hayır" diye cevap verdi Şakacı Birader. "Önce sen git, su çok derinse ben burada kalırım." Bunun üzerine Aziz Petrus dereye girdi, su derinleşerek dizlerine kadar yükseldi. Bu kez Şakacı Birader aynı yerden yürüdü, ama su onun boğazına kadar yükseldi.
"Kardeş, yardım et bana" diye seslendi.
"Kuzunun yüreğini yediğini itiraf edecek misin şimdi?" diye sordu Aziz Petrus.
"Hayır" dedi Birader, "Onu ben yemedim." Bu kez su gitgide artarak ağzına kadar yükseldi. "Yardım et bana, kardeş" diye bağırdı yine.
"Kuzunun yüreğini yediğini itiraf edecek misin?" diye sordu Aziz Petrus bir kez daha. "Hayır, yemedim" dedi Birader.
Yine de Aziz Petrus onun boğulmasına izin vermedi, suyun seviyesini indirtti ve onun karşı tarafa geçmesini sağladı. Daha sonra birlikte yola koyuldular.
Derken bir köy evine vardılar. Orada durmadan sızlanıp yakınan biri olduğunu görünce içeri girdiler. Odada ölmek üzere olan bir hasta vardı. Karısı hüngür hüngür ağlıyordu.
"Ağlayıp sızlanmayı bırak! Ben kocanı iyileştiririm" diyen Aziz Petrus cebinden çıkardığı bir sabunla adamı iyileştiriverdi; adam sapasağlam ayağa kalktı.
Karı koca büyük bir sevinç içinde "Sizi nasıl ödüllendirebiliriz? Size ne verelim?" diye sordular.
Aziz Petrus bir şey istemedi; ev sahipleri ne kadar ısrar ettiyse de o reddetti.
Ama Şakacı Birader Aziz Petrus'a bir dirsek atarak, "Yahu bir şeyler alsana, ihtiyacımız var işte!" dedi.
Sonunda köylüyle karısı bir kuzu getirerek bunu almalarını söyledi. Aziz Petrus yine istemedi. Şakacı Birader, "Aptallık etme de al! İhtiyacımız var!" dedi.
Bunun üzerine Aziz Petrus, "Tamam alalım, ama ben taşımam. Madem bu kadar istiyorsun, o zaman sen taşı!" dedi. "Önemli değil, ben taşırım" diyerek kuzuyu sırtladı Şakacı Birader.
Oradan ayrıldıktan sonra bir ormana vardılar. Kuzuyu taşımak Şakacı Birader'e zor geldi. Aynı zamanda karnı da acıkmıştı. "Bak şurada güzel bir yer var, orada kuzuyu pişirir yeriz" dedi Aziz Petrus'a.
"Öyle olsun" dedi Aziz Petrus. "Ama ben pişirmekten anlamam. Sen pişireceksen al sana bir kazan, ben yemek pişene kadar şöyle bir dolaşayım. Sakın ben gelmeden yemeğe başlama. Vaktinde yetişirim."
Böyle diyerek dışarı çıktı. Şakacı Birader kuzuyu kesti, ocağı yaktı, eti kazana attı ve pişirdi. Kuzu çabuk pişti. Aziz Petrus hâlâ geri dönmediği için kazandan aldığı eti keserek kuzunun yüreğini çıkardı ve onu yedi.
Sonunda Aziz Petrus geri döndü ve "Bütün kuzuyu sen yiyebilirsin, bana yalnız yüreğini ver" dedi.
Şakacı Birader eline bıçakla çatalı alarak sözüm ona kuzunun yüreğini aradı, ama bulamadı. "Yokmuş!" dedi.
"O da ne demek?"
"Bilmem?" diye cevap verdi Şakacı Birader. "Ama baksana, ikimiz de keçileri kaçırmışız; kuzunun yüreğini arıyoruz; kuzuların yüreği olmaz ki!"
"Her hayvanın bir yüreği vardır. Kuzunun niye olmasın?" dedi Aziz Petrus.
"Valla yok kardeş! Sen de düşün, bana hak vereceksin. Gerçekten yok!" diye cevap verdi Şakacı Birader.
"Hadi öyle olsun!" dedi Aziz Petrus. "O zaman başka et istemem, hepsini sen ye!"
"Yemediğimi zembilime atarım" diyen Şakacı Birader kuzuyu yedi,, yiyemediğini de zembiline attı.
Böylece yola koyuldular. Derken Aziz Petrus bir dere yarattı; bunun üzerinden geçeceklerdi.
"Sen önce geç!" dedi Aziz Petrus.
"Hayır, önce sen geç!" dedi Şakacı Birader, "Su derinse ben batmamış olurum" diye aklından geçirdi.
Aziz Petrus dereye girdi; su dizlerine kadar geliyordu. Şakacı Birader de dereye girdi, ama su onun boğazına kadar yükseliverdi. "Kardeş, bana yardım et!" diye seslendi.
"Kuzunun yüreğini yediğini itiraf edecek misin?" diye sordu Aziz Petrus.
"Hayır, yemedim" diye cevap verdi Birader. Bu kez su daha da yükselerek ağzına kadar geldi. "Yardım et, kardeş!" diye seslendi.
Aziz Petrus bir kez daha sordu: "Kuzunun yüreğini yediğini itiraf edecek misin?"
"Hayır, yemedim" dedi Birader yine.
Aziz Petrus onun boğulmasını istemedi, suyu alçalttı ve sudan çıkmasına yardım etti.
Yine yola koyuldular. Derken yeni bir ülkeye vardılar ve duydular ki, oraların prensesi ölümcül bir hastalığa yakalanarak yatağa düşmüş.
Şakacı Birader Aziz Petrus'a, "Hey kardeş, fırsat çıktı; şu kızı iyileştirirsek bir süre rahat ederiz" dedi. Aziz Petrus'un ağırdan aldığını görünce de "Hadi çabuk ol kardeş, zamanında yetişelim!" diye seslendi.
Ama Aziz Petrus çok ağır yürüyordu. Prensesin öldüğünü duyduklarında Şakacı Birader Aziz Petrus'u kolundan çekerek, "Ne nane yedik görüyor musun? Hep senin yüzünden oldu" dedi.
"Kapa çeneni!" diye cevap verdi Aziz Petrus. "Ben bir hastayı iyileştirmekten daha fazlasını da yaparım: ölüyü diriltirim!"
"O zaman yap bakalım! Krallığın yarısı elimize geçer!" dedi Şakacı Birader.
Saraya vardılar; herkes matem tutuyordu.
Aziz Petrus krala kızını diriltebileceğini söyledi. Onu hemen kızın yanına götürdüler.
"Bana bir kazan su getirin!" dedi Aziz Petrus. Getirdiler. Herkesi odadan dışarı çıkarttı; sadece Şakacı Birader kaldı yanında.
Aziz Petrus, kızın kollarıyla bacaklarını keserek kazana attı ve kaynatmaya başladı. Etler kemiklerden ayrıldıktan sonra bembeyaz iskeleti alarak tüm kemikleri bir saç levha üzerine doğal şekliyle yerleştirdi. Tüm bunları yaptıktan sonra üç kez "Kutsal Üçleme adına, ey ölü, ayağa kalk!" diye seslendi.
Üçüncü seslenişten sonra prenses sapasağlam ayağa kalktı; öyle güzeldi ki!
Kral sevinçten uçuyordu. Aziz Petrus'a, "Dile benden ne dilersen, krallığımın yarısını verebilirim sana!" dedi.
Ama Aziz Petrus "Hiçbir şey istemem" dedi.
Şakacı Birader ona bir dirsek atarak, "Aptallık etme! Sen bir şey istemiyorsan bırak da ben isteyeyim" dedi.
Ama Aziz Petrus buna da yanaşmadı. Kral hazinedarına emrederek Şakacı Birader'in zembilini altınla doldurttu.
Tekrar yola çıktılar. Derken bir ormana vardılar. Aziz Petrus, "Şimdi parayı paylaşalım" dedi.
"Olur, öyle yapalım" dedi Şakacı Birader. Bunun üzerine Aziz Petrus parayı üçe paylaştırdı. Şakacı Birader "Kim bilir yine aklından neler geçiyor? Biz iki kişiyiz, o üçe bölüyor" diye düşündü.
"Parayı üçe böldüm; biri sana, biri bana, biri de kuzunun yüreğini yiyene!" dedi Aziz Petrus.
"Onu ben yedim yahu!" diyen Şakacı Birader gülerek hemen o altını da zembiline attı.
"Nasıl olur, hani kuzunun yüreği yoktu?" dedi Petrus.
"Boş versene sen kardeş! Kuzunun yüreği elbette vardı, niye olmasın ki?"
"Tamam o zaman" dedi Aziz Petrus, "Para sende kalsın, ama artık ben seninle olamam, yoluma tek başıma devam edeceğim."
"Nasıl istersen, hoşçakal!" diye cevap verdi Şakacı Birader.
Ve Aziz Petrus başka bir sokağa daldı. "İyi ki çekip gitti. Acayip bir azizdi" diye aklından geçirdi Şakacı Birader.
Artık çok parası vardı, ama bununla ne yapacağını bilemedi. Oraya buraya harcadı, ona buna verdi ve bir gün geldi ki, hiç parası kalmadı.
Derken yeni bir ülkeye geldi. Duydu ki kralın kızı ölmüş!
"Tamam!" dedi "Bu, işime yarayacak. Ben onu diriltirim ve karşılığında da para alırım."
Kralın huzuruna çıkarak ona ölüyü diriltebileceğini söyledi. Kral terhis olmuş bir askerin ölüleri dirilttiğini duymuştu, ama bu adama pek güvenemediği için danışmanlarına sordu. Onlar da kız öldüğüne göre bir kere denemesini önerdi.
Neyse, Şakacı Birader bir kazan dolusu su getirtti, herkesi dışarı çıkarttıktan sonra ölünün kol ve bacaklarını keserek suya attı ve Aziz Petrus'tan nasıl görmüşse öyle yaptı. Ocağı ateşledi. Su kaynamaya başladı, etler ayrıldı, iskeleti alıp bir saç levha üzerine koydu, ama kemikleri nasıl dizeceğini bilemediği için hepsini ters sıraladı. Sonra onların başına geçerek "Kutsal Üçleme adına, ey ölü, ayağa kalk!" diye üç kez seslendi, ama nafile!
"Hey kız, ayağa kalk! Ayağa kalk, yoksa karışmam haa!"
Bunu söyler söylemez Aziz Petrus, Şakacı Birader'in eski kıyafetinde, yani asker olarak pencereden içeri girdi ve "Be imansız adam, neler yapıyorsun sen? İskeleti gelişigüzel yerleştirirsen ölü nasıl dirilir?" dedi.
"Valla ben elimden geleni yaptım kardeş!" diye cevap verdi Birader.
"Bu kez sana yardım edeceğim, ama bir daha böyle bir şey yapmaya kalkışırsan çarpılırsın. Kraldan da hediye falan alma!"
Böyle söyleyen Aziz Petrus, iskeleti doğal haliyle yerleştirdikten sonra üç kez "Kutsal Üçleme adına, ey ölü, ayağa kalk!" diye seslendi.
Prenses ayağa kalktı, yine eskisi gibi sapasağlam ve güzeldi. Sonrasında Aziz Petrus geldiği gibi pencereden gizlice gitti.
Şakacı Birader olayın bu şekilde sonlanmasma çok sevindi, ama karşılığında para alamayacağı için öfkeliydi. "Onun aklından neler geçiyor, bilmek isterdim; bir eliyle verdiğini öbür eliyle alıyor. Akıl almaz bir şey!" diye söylendi.
Kral ona ne istediğini sordu. Aslında bir şey almamalıydı, ama bin dereden su getirerek zembilinin altınla doldurulmasını istedi. Ve sonra da oradan ayrıldı.
Dışarı çıktığında karşısında Aziz Petrus'u buldu. "Sen ne biçim adamsın be! Sana bir şey almanı yasaklamadım mı? Sense zembilini altınla doldurttun!" diye azarladı Aziz Petrus onu.
"Elimde değil" diye cevap verdi Şakacı Birader. "Zembilimi zorla doldurdular."
"Bak sana söylüyorum, bir daha böyle bir şey yaparsan başın belaya girer!"
"Merak etme be kardeş. Artık altınım var, ne diye kemiklerle uğraşayım!"
"Tamam" dedi Aziz Petrus ve ekledi: "Bu para seni bir süre idare eder. Ama daha sonra yanlış yola sapmaman için zembiline 'güç' yüklüyorum; ne istersen o zembilin içinde var! Hoşçakal, beni artık görmeyeceksin!"
"Tanrı'nın dediği olur!" diyen Şakacı Birader, "İyi ki çekip gitti acayip adam, peşinden gidecek değilim" diye aklından geçirdi. Ama zembilindeki mucizevi gücü düşünmedi bile.
Şakacı Birader parasını yine har vurup harman savurdu. Cebinde dört metelikten daha fazla para kalmayınca bir hana geldi ve "Şu para da gitsin!" diye düşünerek üç metelik karşılığında şarap ve bir metelik ekmek ısmarladı. Orada yiyip içerken burnuna kızarmış kaz kokusu geldi. Çevresine bakındı; hancı ocağa iki tane kaz koymuştu. Aklına yoldaşının, ne istersen zembilinden isteyebilirsin sözleri geliverdi.
"Şunu kazla deneyelim bakalım!" diye söylendi. Ve kapının önüne çıkarak, "Ocaktaki iki kızarmış kazın zembilime girmesini istiyorum" dedi. Bunu der demez zembilinin içine baktı; kazların ikisi de oradaydı.
"Vay canına, artık güçlü biri oldum ben" diyerek çayırlığa gidip kazları çıkardı ve yemeye başladı. Tam yemeğin ortasındayken iki işçi çıkageldi ve henüz yenmemiş kaza gözlerini dikti. Şakacı Birader "Bir tanesi bana yetti" diye düşünerek adamlara seslendi: "Alın şunu, şerefime yiyin!"
Adamlar teşekkür ederek hana girdiler. Yarım şişe şarapla ekmek ısmarladıktan sonra yanlarında getirdikleri kazı yemeye koyuldular.
Hancının karısı bunu görünce kocasına "Şu iki herif kaz yiyor, bu bizim kazlardan biri olmasın! Git bak bakalım!" dedi. Hancı gidip baktı, ocak bomboştu.
"Sizi gidi hırsızlar sizi, kazları yersiniz ha! Kursağınızda kalsın! Ya ödersiniz ya da fena yaparım" dedi.
"Biz hırsız değiliz; dışarıda çayırlıkta, askerden yeni dönmüş bir adam verdi bunu bize" dedi iki adam.
"Bana numara yapmayın. O namuslu bir adam, ben çok dikkat ettim. Ama siz hırsızsınız, ödeyin bakalım" diye yanıtladı hancı.
Adamlar ödemeyince hancı eline geçirdiği bir sopayla güzel bir dayak attıktan sonra kapı dışarı etti onları.
Şakacı Birader yoluna devam etti. Derken bir yöreye vardı; burada görkemli bir şatoyla yakınında köhne bir han vardı. Hana giderek hancıdan geceleyecek bir yer istedi.
"Hiç yer yok, han soylu misafirlerle doldu" dedi hancı.
"Görkemli bir şato dururken niye herkes buraya geliyor, şaştım doğrusu" dedi Şakacı Birader.
"Bunun bir nedeni var. Şatoda yatan sabaha sağ çıkmıyor" dedi hancı.
"Başkaları bunu denediğine göre ben de denerim" dedi Şakacı Birader.
"Vazgeç bu işten, yoksa başın belaya girer!" dedi hancı.
"Sen bana anahtarı ver, yanıma da biraz yiyecek içecek koy!"
Hancı hem anahtarı hem de yiyecek içeceği verdi. Şakacı Birader bunlarla şatoya gitti. Orada güzel bir yemek yedi. Derken uykusu geldi; yatak olmadığı için yere uzandı ve çok geçmeden uyudu. Gece yarısı büyük bir gürültüyle uyandı. Kendine geldiği zaman karşısında dokuz tane çirkin şeytan gördü; hepsi odanın içinde dört dönüp dans ediyordu.
"istediğiniz kadar dans edin, ama kimse yanıma yanaşmasın!" dedi Şakacı Birader. Ama şeytanlar çemberi gitgide daraltarak çamurlu ayakkabılarıyla onun vücudunu, hatta yüzünü tekmelemeye başladılar.
Bu kez Şakacı Birader çok kızdı. "Ben şimdi size gösteririm!" diyerek eline geçirdiği bir iskemle bacağıyla onları dövmeye kalkıştı. Ama tek bir askere karşı dokuz şeytan biraz fazlaydı. Biri onun saçını çekerken öbürü dövmeye çalışıyor ve canını yakıyordu.
"Sizi gidi şeytanlar sizi! Yetti artık! Hadi bakayım, hepiniz zembilime girin" diye seslendi Şakacı Birader. Hooop, hepsi zembile giriverdi; ağzını sıkıca bağladıktan sonra onu bir köşeye attı. Birden ortalığı bir sessizlik kapladı. Şakacı Birader yatarak güneş doğana kadar güzel bir uyku çekti.
Ertesi gün hancıyla şatonun sahibi olan soylu kişi çıkageldi ve onun hatırını sordular. Kendisini sapasağlam ve dinç görünce şaşırarak sordular: "Sizi cin çarpmadı mı?"
"Yoo, ben dokuzunu da zembilime attım. Artık şatonuzda rahatça oturabilirsiniz. Kimse sizi tedirgin etmeyecek!" diye cevap verdi Şakacı Birader.
Soylu kişi onu yüklü bir parayla ödüllendirdi, ona teşekkür ettikten sonra yanında çalışmasını teklif etti; böylece ömür boyu rahat edebilirdi.
Bizimki "Hayır" diye cevap verdi. "Ben dolaşmadan duramam. Tekrar yola çıkmalıyım."
Böylece Şakacı Birader yola çıktı ve bir demircinin yanına vardı. Zembilini sırtından indirerek örsün üzerine koydu ve demirciyle yardımcılarından onu iyice dövmelerini rica etti. Adamlar ellerindeki balyozla ve tüm güçleriyle zembili dövdüler. Canhıraş çığlıklar yükseldi. Zembili açtılar; sekiz şeytan ölmüştü, ama bir kıvrıma saklanmış olan son şeytan oradan kaçıverdi ve cehenneme gitti.
Şakacı Birader ondan sonra uzun süre dünyada dolaştı; anlatacağı o kadar çok şey vardı ki!
Derken yaşlandı ve sonunu düşünmeye başladı. O yörede dini bütün olarak tanınan bir keşiş vardı. Onun yanına giderek, "Ben dolaşa dolaşa yoruldum, şimdi cennete gitmek istiyorum" dedi.
"İki yol var: biri geniş ve rahat, ama cehenneme götürür; öbürü dar ve taşlık, o da cennete götürür."
"Dar ve taşlık yoldan gidecek kadar enayi miyim ben!" diye düşünerek rahat yolu seçti Şakacı Birader. Derken koskocaman, siyah bir kapıya vardı; bu cehennemin kapısıydı! Kapıyı çaldı, nöbetçi kim gelmiş diye baktı. Şakacı Birader'i görünce çok şaştı, çünkü bu nöbetçi son anda zembilden kaçıp kurtulan dokuzuncu şeytandı.
Hemen kapıyı sürgüleyerek şeytanların başına koştu ve "Dışarıda zembilli bir herif var, içeri girmek istiyor. Sakın onu almayın yoksa bütün cehennemi zembilinin içine atar! Beni bir defasında o zembilin içinde dövdürdü" dedi.
Şakacı Birader'i çağırıp çekip gitmesini söylediler; yani içeri alınmadı.
"Beni almazlarsa ben de cennete giderim. Belki kendime orada yatacak bir yer bulurum" diyen Şakacı Birader cennetin kapısına gitti ve kapıyı çaldı. Bu kez nöbetçi Aziz Pet- rus'tu.
Şakacı Birader onu hemen tanıdı. "Burada eski bir arkadaşı bulduk, işler tıkırında sayılır" diye geçirdi aklından.
Ama Aziz Petrus, "Sakın bana cennete girmek istediğini söyleme!" dedi.
ÜBırak da gireyim kardeş. Başka nereye gideyim ki! Cehenneme gittim, almadılar. Yoksa buraya gelmezdim."
"Olmaz, buraya giremezsin" dedi Aziz Petrus.
"Beni içeri almıyorsan, al zembilini geri. Senin yüzünü bile görmek istemiyorum!" diye cevap verdi Şakacı Birader.
"Ver bakayım" dedi Aziz Petrus.
Şakacı Birader demir parmaklıklar arasından zembili cennete uzattı. Aziz Petrus onu alarak sandalyesine astı.
Şakacı Birader tam o anda "Şimdi o zembilin içine girmek istiyorum!" deyince, hooop zembile giriverdi; yani Aziz Petrus ister istemez onu cennete aldı.