Vua núi vàng


Kongen af det gyldne bjerg


Một người lái buôn có hai con, một trai và một gái, cả hai đều còn nhỏ, chưa biết đi. Bác có hai chiếc thuyền đi buôn đường biển, đó chính là toàn bộ gia sản của bác - đi buôn đường biển thường lãi lớn - nhưng không ngờ bác được tin cả hai thuyền đều bị đắm. Từ chỗ giàu có nay bác trở nên nghèo, gia sản còn lại chỉ là một mảnh ruộng ở ngoài ven thị trấn. Để cho khuây khỏa nỗi buồn phiền, bác ta ra đồng, đi đi lại lại. Bỗng một người bé tí đen nhẻm xuất hiện, đứng ngay bên bác và hỏi, bác có chuyện gì mà nom lo lắng buồn phiền vậy. Bác nói:
- Liệu có giúp ta được việc gì không nào mà ta kể.
Người đen tí hon đáp:
- Trời mà biết được. Biết đâu tôi lại giúp được thì sao.
Bác lái buôn kể lại việc hai thuyền buôn cùng toàn bộ hàng hóa gia sản bị chìm dưới đáy biển. Giờ chỉ còn có mảnh ruộng này thôi. Người tí hon nói:
- Bác đừng buồn phiền nữa. Nếu bác hứa với tôi một điều, thì bác muốn bao nhiêu tiền cũng có khi về tới nhà, cái gì chạm vào chân bác trước tiên, sau mười hai năm nữa bác phải mang cái đó lại đây cho tôi.
Bác lái buôn nghĩ bụng:
- Chắc cái đó chẳng thể khác là chính con chó của mình.
Bác không hề nghĩ tới đứa con trai bé nhỏ nên nhận lời ngay, ký ngay giao kèo với người Tí Hon kia và đi về nhà.
Thấy bố về, đứa con trai mừng quá, lần theo ghế ra và ôm chầm lấy chân. Người bố giật mình hoảng sợ khi chợt nhớ tới điều mình vừa cam kết. Nhưng thời gian cứ thế trôi qua mà bác không thấy có tiền của gì trong rương hòm nhà mình. Bác nghĩ, chắc người Tí Hon nói giỡn chơi.
Một tháng sau, bác lên gác xép tính gom ít thiếc đem bán, nhưng nó chẳng phải là thiếc nữa, mà thành những đồng tiền vàng. Bác rất đỗi vui mừng, lấy số tiền ấy để buôn bán và trở nên giàu có, thậm chí giờ còn giàu hơn trước.
Đứa con trai bác lái buôn ngày một khôn lớn, nhưng con càng gần tới tuổi mười hai thì bác lái buôn càng lo, nỗi lo ấy hiện ra mặt. Một hôm, đứa con trai hỏi bố có điều gì mà buồn phiền vậy. Người bố không muốn nói ra, nhưng đứa con trai năn nỉ mãi, người bố đành phải nói, bác kể xưa có hứa với một người đen Tí Hon, nếu bác trở nên giàu có do sự giúp đỡ của người Tí Hon thì cũng sẵn sàng theo điều kiện do người ấy đòi hỏi, bác đã ký giao kèo với người ấy, mười hai năm sau sẽ đưa cho người Tí Hon cái gì chạm chân bác trước tiên. Đứa con trai nói:
- Bố ơi, bố đừng lo. Mọi việc sẽ ổn. Người đen chẳng có quyền lực gì với con.
Người con trai đến xin linh mục ban phép thánh cho. Đúng giờ hẹn, cả hai bố con cùng tới mảnh ruộng ngoài thị trấn, người con trai vẽ một vòng tròn, rồi hai bố con đứng vào vòng tròn ấy. Người đen xuất hiện và bảo người bố:
- Bác có mang đến cái bác đã hứa với tôi không?
Bác lái buôn nín lặng, nhưng đứa con trai hỏi:
- Bác tìm gì ở đây?
Người đen đáp:
- Tao có điều cần nói với bố mày, chứ không phải nói với mày.
Người con nói:
- Bác đã đánh lừa bố tôi. Giờ hãy xí xóa những lời thề ấy đi.
Người đen nói:
- Không, tao không từ bỏ quyền lợi của tao.
Đôi bên lời qua tiếng lại rất lâu, cuối cùng đi đến nhất trí: Đứa con trai không phải là của ai, chẳng thuộc người bố mà cũng chẳng thuộc người đen kia. Nó sẽ ngồi xuống một chiếc thuyền đậu ven sông. Người bố lấy chân đẩy thuyền ra giữa dòng để phó mặc con trôi theo dòng nước.
Chào từ biệt bố, đứa con trai bước xuống thuyền và người bố đẩy thuyền ra giữa dòng. Thuyền lộn nhào. Người bố tưởng con chết nên để tang. Nhưng chiếc thuyền không đắm, cứ thế trôi theo dòng nước. Cuối cùng nó dừng đậu ở một bến xa lạ. Anh thanh niên lên bờ, thấy đằng xa có một tòa lâu đài nguy nga, liền đi về hướng ấy. Khi vào trong lâu đài, anh thấy lâu đài bị phù phép, các phòng trong lâu đài đều trống không. Anh đi mãi, sau tới căn phòng cuối cùng thì thấy một con rắn đang nằm cuộn tròn ở trong đó. Thực ra đó là một cô gái bị phù phép. Cô thấy anh mừng rỡ và nói với anh:
- Anh đến giải thoát cho em đấy à? Em đợi anh đã mười hai năm nay. Cả nước này bị phù phép. Anh hãy giải thoát cho em!
Anh hỏi:
- Tôi phải làm gì?
- Đêm khuya nay có mười hai người đen quàng xích quanh người sẽ đến đây. Họ hỏi anh làm gì ở đây. Anh cứ câm lặng, không nói nửa lời. Chúng sẽ hành hạ anh, đánh và đâm anh, anh cứ mặc chúng, chỉ đừng có hé miệng ra nói. Đúng mười hai giờ đêm chúng lại bỏ đi. Đêm thứ hai, mười hai người đến. Đêm thứ ba sẽ có hai mươi người đến chặt đầu anh. Nhưng cứ đúng nửa đêm là phép thuật của chúng hết hiệu lực. Nếu anh gắng giữ mặc chúng hành hạ mà không nói nửa lời thì em sẽ được giải thoát. Em sẽ lấy chai nước hồi sinh thoa bóp khắp người anh sẽ tỉnh lại và khỏe mạnh như trước.
Anh thanh niên đáp:
- Tôi sẵn lòng giải thoát cho cô.
Mọi việc xảy ra đúng như lời cô nói. Bọn người đen không cậy được anh nửa lời. Đến đêm thứ ba, con rắn biến thành nàng công chúa xinh đẹp, lấy nước hồi sinh thoa bóp cho anh tỉnh lại. Cô ôm choàng anh hôn, cả lâu đài trở nên vui nhộn. Lễ cưới được tổ chức, anh trở thành Vua Núi Vàng.
Hai người vui sướng sống bên nhau. Hoàng hậu sinh được một bé trai kháu khỉnh. Thấm thoát đã tám năm trôi qua, nhà vua nhớ quê hương, muốn về thăm bố mẹ. Hoàng hậu không muốn để vua đi, nên nói:
- Em sẽ đau khổ, nếu chàng đi.
Nhưng nhà vua nài nỉ mãi cho đến khi hoàng hậu ưng thuận mới thôi. Lúc chia tay, hoàng hậu trao cho vua chiếc nhẫn thần và dặn:
- Khi đeo nhẫn này vào ngón tay, chàng chỉ cần cầu chú sẽ tới ngay được nơi muốn đến. Nhưng phải hứa đừng dùng vào việc bắt em về chỗ bố chàng.
Vua hứa, rồi đeo nhẫn vào tay, cầu chú về tới quê hương. Trong khoảnh khắc vua đã về tới thành phố quê hương, nhưng lính canh thấy ăn mặc sang trọng lạ kỳ nên không cho vào trong thành. Vua phải ra chỗ người chăn cừu, đổi quần áo cho họ và mặc đồ chăn cừu thản nhiên đi vào trong thành.
Về đến nhà, vua xưng tên với bố đẻ, nhưng ông không tin đó chính là con trai mình. Ông luôn nghĩ, nó đã chết. Trước mắt ông giờ đây chỉ là một người chăn cừu nghèo khó đáng thương. Ông tính bố thí cho một đồng Taler để ăn. Người chăn cừu lại nói:
- Con chính là con trai bố mẹ đây mà. Bố mẹ còn nhớ dấu vết gì trên người con không?
Người mẹ nói:
- Có chứ, con trai mẹ có một dấu giống như quả dâu tây ở cánh tay phải.
Chàng trai chăn cừu vén tay áo lên cho bố mẹ xem, quả đúng như vậy, chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Rồi chàng kể cho bố mẹ nghe, rằng mình bây giờ là Vua Núi Vàng, đã lấy một công chúa và đã có một đứa con trai bảy tuổi rất kháu khỉnh.
Bố nói:
- Chẳng bao giờ lại có chuyện đó. Một kẻ chăn cừu quần áo lôi thôi bẩn thỉu đang đứng đây chính là nhà vua.
Nghe cha nói, chàng trai nổi giận, quên mất lời hứa trước kia với hoàng hậu, chàng xoay chiếc nhẫn, ước sao vợ con đến ngay bên mình. Trong khoảnh khắc, vợ con đến. Nhưng hoàng hậu than khóc trách chồng không giữ lời hứa, làm cho nàng khổ. Chàng nói:
- Anh thật vô tâm quá, em hãy thứ lỗi cho anh.
Nàng nguôi giận, nhưng trong lòng không vui. Rồi chàng dẫn nàng ra thửa ruộng bên sông, nơi chàng bước xuống thuyền khi xưa và nói:
- Anh mệt mỏi quá, em ngồi xuống cho anh ngả vào lòng em ngủ một lát.
Chàng ngả đầu vào lòng nàng và thiêm thiếp ngủ. Đợi chàng ngủ say, nàng rút nhẫn thần khỏi tay chàng và từ từ rút chân để chàng nằm lại.
Nàng bế con và cầu chú trở về xứ sở của mình. Khi tỉnh dậy, chàng thấy mình bị bỏ rơi. Vợ con đã đi mất, chỉ còn đôi hài để lại làm dấu. Chàng nghĩ:
- Trở lại với bố mẹ làm sao được nữa, mọi người cho mình định lừa đảo mang đồ đi.
Chàng đành lên đường, tới chân một ngọn núi, chàng gặp ba người khổng lồ đang tranh cãi nhau về cách chia gia tài của bố để lại. Thấy chàng, chúng vẫy gọi lại nhờ phân xử. Chúng nói, người nhỏ khôn hơn chúng. Gia tài gồm ba thứ: gươm, áo và đôi ủng. Khi người có gươm hô: "Tất cả đầu rụng xuống đất, trừ đầu ta" thì lời ước thành sự thực trong nháy mắt. Ai khoác chiếc áo thì thành vô hình. Ai đi đôi giàu ủng thì muốn tới đâu là đến ngay được đó. Chàng bảo:
- Hãy đưa cho ta ba vật ấy để xem chúng có những khả năng ấy không.
Chúng đưa cho chàng chiếc áo. Chàng vừa mới khoác lên người thì đã trở thành vô hình, và biến thành con ruồi. Sau đó chàng lại hiện thành người và nói:
- Chiếc áo tốt. Giờ đưa cho ta thanh gươm.
Chúng từ chối. Sợ chàng hô "Tất cả đầu rụng xuống đất, trừ đầu ta" thì chúng mất đầu và chàng là người duy nhất còn lại. Nhưng chúng ra điều kiện là chàng chỉ thử dùng gươm chém cây. Chàng thử chém cây, cây đứt như người ta phạt cỏ. Rồi chàng bảo chúng đưa ủng. Chúng từ chối, bảo nếu đi ủng vào chỉ trong nháy mắt chàng đã đi rất xa, chúng chỉ còn cách đứng nhìn. Chàng nói:
- Nếu vậy thì tôi không phân xử nữa.
Chúng đành đưa ủng cho chàng. Có trong tay cả ba báu vật, giờ chàng chỉ có nghĩ tới vợ và con. Chàng cầu chú:
- Ước gì ta trở lại Núi Vàng?
Thế là ngay sau đó, chàng biến mất và cũng là phân xử xong việc chia gia sản cho ba người khổng lồ. Khi tới lâu đài, chàng nghe thấy tiếng đàn sáo vui nhộn. Mọi người cho biết vợ chàng làm lễ cưới với người khác. Chàng nổi giận nói:
- Quân khốn kiếp. Nó lừa lúc ta ngủ rồi bỏ đi.
Chàng mặc áo tàng hình và đi vào lâu đài. Khi vào phòng lớn thì thấy một bàn tiệc lớn hết sức thịnh soạn, khách ăn uống, trò chuyện vui vẻ. Vợ chàng đầu đội vương miện, ngồi trên ngai vàng ở chính giữa. Chàng đến đứng ngay sau nàng mà không ai thấy. Cứ có thức ăn gắp bỏ vào đĩa nàng là chàng lấy ăn liền. Và rượu được rót vào ly nàng, chàng cũng uống hết. Nàng được tiếp thức ăn, đồ uống luôn luôn mà vẫn không ăn uống được gì, mọi thứ đều biến mất trong nháy mắt. Nàng đâm ra hoảng sợ và ngượng, đứng dậy, về buồng ngồi khóc, nhưng chàng cũng đi theo vào buồng. Nàng ngồi nói một mình:
- Phải chăng có quỷ ám ta hay là người giải thoát ta đến?
Chàng tát nàng và nói:
- Người giải thoát ngươi đến chăng? Người ấy đang ở trên đầu ngươi, quân phản bội! Ta bị ngươi đối xử bội bạc.
Rồi chàng hiện nguyên hình người, tới phòng lớn và nói to:
- Tiệc cưới kết thúc, chính vua đã về đây.
Các vua, chúa, cận thần có mặt ở đó cười giễu cợt chàng. Chàng họ một câu ngắn gọn:
- Các người có ra hay không?
Tất cả đổ xô đến bắt chàng. Chàng rút gươm hô:
- Tất cả đầu rụng xuống đất, trừ đầu ta!
Lập tức các đầu lìa khỏi thân lăn xuống đất.
Chàng lại là chúa tể và lại lên ngôi Vua Núi Vàng.


Dịch: Lương Văn Hồng, © Lương Văn Hồng
Der var engang en købmand, som havde to børn, en dreng og en pige. De var begge to ganske små og kunne ikke gå endnu. På den tid fik han efterretning om, at hans to skibe, der var kostbart ladede, og som udgjorde hele hans formue, var gået til bunds. Nu var han pludselig blevet fattig og ejede ikke andet end en mark udenfor byen. For at adsprede sine mørke tanker lidt gik han ud på marken, og mens han spadserede frem og tilbage der, fik han pludselig øje på en lillebitte sort mand, der stod ved siden af ham og spurgte, hvorfor han var så bedrøvet. "Hvis du kunne hjælpe mig, ville jeg vel nok fortælle dig det," svarede købmanden. "Man kan jo aldrig vide om jeg ikke kan," sagde den lille mand. Købmanden fortalte ham nu, at hele hans formue var gået til grunde på havet, og at han ikke havde andet tilbage end denne mark. "Det skal du ikke bryde dig om," sagde den lille mand, "hvis du vil love mig om tolv år at bringe mig det, din fod først støder på, når du kommer hjem, skal du få så mange penge, du vil." - "Det kan jo ikke være andet end min hund," tænkte manden. Det faldt ham ikke ind, at det måske kunne være et af hans børn, og han sagde derfor ja og skrev det på et stykke papir og satte sit segl under.
Da han kom hjem, blev hans lille dreng så glad ved at se ham, at han kravlede henimod ham og tog fat i hans ben. Manden blev forfærdet, da han kom i tanker om, hvad han havde lovet, men da der ikke var guld at finde nogetsteds, mente han, at det havde været en spøg af manden. En månedstid efter gik han op på loftet for at lede efter noget gammelt tin, som han kunne sælge, og opdagede da, at der lå en stor bunke penge. Nu blev han igen i godt humør, købte og solgte og blev rigere end nogensinde før og lod fem være lige. Imidlertid var drengen vokset til og blevet klog og flink. Efterhånden som hans tolvte år nærmede sig, blev købmanden mere og mere bedrøvet, og man kunne se på hans ansigt, at der var noget, der pinte ham. En gang spurgte sønnen ham, hvad der var i vejen. Han ville først ikke ud med det, men drengen blev ved at plage ham så længe, til han fortalte, at han uden at vide det havde lovet ham bort til en sort mand og fået mange penge for det. Han havde skrevet sit navn som bevis, og når han var tolv år gammel, måtte han udlevere ham. "Du skal ikke være bange, far," sagde drengen, "det skal nok blive godt altsammen. Den sorte mand skal ikke få magt over mig."
Da tiden nærmede sig, gik drengen hen til en præst, som velsignede ham. Derpå gik han og faderen sammen ud på marken og han slog en kreds om dem. Lidt efter kom den sorte mand og sagde til den gamle: "Har du så det med, som du har lovet mig." Han svarede ikke, men sønnen spurgte: "Hvad vil du her?" - "Jeg taler med din far og ikke med dig," svarede den sorte mand. "Du har bedraget min far," sagde drengen, "giv mig beviset." - "Nej," sagde manden, "jeg opgiver ikke min ret." De snakkede nu længe frem og tilbage, og til sidst blev de enige om, at sønnen, der jo ikke mere tilhørte faderen, skulle bringes ombord på et skib, og den gamle skulde så selv slippe det løs, så det sejlede ned i vandfaldet. Drengen tog nu afsked med faderen og gik ombord. Skibet blev straks revet omkuld, så bunden kom i vejret, og faderen troede, at hans søn var druknet, og gik bedrøvet hjem.
Skibet gik imidlertid ikke til bunds, men flød roligt videre, og drengen sad godt gemt derinde, uden at vandet trængte ind til ham. Endelig stødte det mod land, og da drengen gik ud så han, at der lå et dejligt slot lige for ham. Han gik rask væk derind uden at vide, at det var forhekset. Han gik gennem en mængde tomme stuer og kom til sidst til et værelse, hvori der lå en slange og snoede sig. Det var en forhekset jomfru, og da hun så ham, spurgte hun glad: "Kommer du for at befri mig? Nu har jeg ventet på dig i tolv år. Du må frelse mig og hele det fortryllede rige." - "Hvordan skal jeg dog bære mig ad dermed?" spurgte han. "I nat kommer der tolv sorte mænd med kæder om halsen og spørger dig, hvad du har at gøre her. Du må ikke svare dem, men lad dem gøre med dig, hvad de vil. De vil slå dig og hugge løs på dig, men find dig i det altsammen og sig ikke et eneste ord. Klokken tolv forsvinder de igen. Natten efter kommer der igen tolv, i den næste fireogtyve, og de hugger dit hovede af. Ved midnatstid er deres magt forbi, og hvis du har holdt tappert ud og ikke sagt et ord, er jeg frelst. Jeg kommer så og bestænker dig med livsens vand, og du bliver straks levende igen." - "Jeg vil gerne frelse dig," svarede han. Det gik nu altsammen, som hun havde sagt. De sorte mænd fik ikke et ord ud af ham, og i den tredie nat blev slangen til en dejlig kongedatter, der bragte ham livsens vand. Hun faldt ham om halsen og kyssede ham, og hele slottet genlød af jubel og glæde. Deres bryllup blev fejret, og han var nu konge af det gyldne bjerg.
De levede nu lykkeligt med hinanden, og dronningen fødte en dejlig dreng. Da otte år var gået, blev han grebet af en stærk længsel efter en gang at se sin far igen. Dronningen ville nødig af med ham. "Det bliver min ulykke," sagde hun, men han havde ikke ro på sig, før han kom af sted. Ved afskeden gav hun ham en ønskering og sagde: "Sæt denne ring på din finger. Den bringer dig straks, hvorhen du ønsker. Kun må du love mig ikke at bruge den til at ønske mig hjem til din far." Han lovede hende det, stak ringen på fingeren og ønskede sig hjem til den by, hvor hans far boede. I samme øjeblik stod han udenfor byens port, men skildvagten ville ikke lade ham komme ind, fordi han havde sådan mærkelige, kostbare klæder på. Han gik da hen til et bjerg, hvor der boede en gammel hyrde, byttede klæder med ham, og slap således ind i byen. Da han kom hjem til sin far, ville han ikke kendes ved ham. "Jeg har rigtignok haft en søn," sagde han, "men han er død for længe siden." Da han så, hvor pjaltet han så ud, ville han give ham en tallerken mad, men hyrden sagde: "Jeg er virkelig din søn. Er der ikke et eller andet mærke, du kan kende ham på?" - "Jo," svarede moderen, "han havde en brun plet under højre arm." Han smøgede skjorten op og viste dem mærket, og de tvivlede nu ikke længere om, at han var deres søn. Han fortalte dem nu, at han var konge af det gyldne bjerg og gift med en dejlig kongedatter, og at de havde en søn på syv år. "Aldrig i livet får du mig det bildt ind," sagde faderen, "det er en rar konge, som kommer i sådanne pjalter." Da blev sønnen vred, og uden at tænke på sit løfte, ønskede han, at hans hustru og barn måtte komme derhen. I samme øjeblik stod de der også, men dronningen græd og klagede og sagde, at han havde gjort hende ulykkelig. "Jeg har jo gjort det af tankeløshed og ikke af ondskab," sagde han og søgte at berolige hende. Hun lod også, som om hun var fornøjet igen, men i sit hjerte havde hun ondt i sinde.
De gik nu udenfor byen til marken, hvor skibet var blevet sat i vandet. "Lad mig sove lidt med hovedet i dit skød," sagde han, "jeg er så træt." Hun satte sig ned, men da han var faldet i søvn, tog hun først ringen af hans finger og trak så forsigtigt benene til sig, men hendes ene sko blev liggende. Derpå tog hun barnet på armen og ønskede sig hjem til sit kongerige igen. Da han vågnede var han alene, hans kone og barn og ringen var borte, kun hendes ene sko stod der. "Jeg vil ikke gå hjem til mine forældre igen," tænkte han, "de vil jo tro, jeg er en troldmand. Det er bedre, jeg ser at finde hjem til mit kongerige." Han begav sig straks på vej og kom efter nogen tids forløb til et bjerg, hvor der stod tre kæmper og skændtes om, hvordan de skulle dele arven efter deres far. Da de så ham gå forbi, kaldte de på ham, for at han skulle komme og hjælpe dem. Arven bestod for det første af et sværd, og når man tog det i hånden og sagde: "Væk med alle hoveder undtagen mit" lå de rundt om på jorden, for det andet af en kappe, som gjorde den, der tog den på, usynlig, og for det tredie af et par støvler, der bragte en, hvorhen man ønskede. "Giv mig det lad mig prøve om det duer," sagde han. De gav ham først kappen, og da han havde taget den på, blev han usynlig. "Den er god nok, giv mig så sværdet," sagde han. "Nej," svarede de, "så kunne du jo skille os allesammen af med hovedet." Til sidst gav de ham det dog på den betingelse at han ville gøre prøve med et træ. Det gjorde han, og sværdet knækkede træet som en svovlstikke. Han ville nu også prøve støvlerne, men de sagde: "Nej, dem får du ikke. Du kunne jo bare ønske dig op på bjerget, så stod vi her med en lang næse." - "Jeg lover jer ikke at gøre det," sagde han og fik så støvlerne på. Han stod nu der med alle tre ting og tænkte bare på sin kone og sit barn. "Bare jeg dog var på det gyldne bjerg," sagde han for sig selv og forsvandt lige for næsen af kæmperne, der jo således havde fået deres strid ordnet. Da han kom til slottet hørte han fløjter og violiner, og folk fortalte ham, at hans dronning var ved at holde bryllup med en anden. "Den troløse," tænkte han, "hun har bedraget mig og forladt mig, mens jeg sov." Han tog nu kappen om sig og gik ind i slottet, uden at nogen kunne se ham. Da han kom ind i salen, sad gæsterne ved et overdådigt bord og spiste og drak og lo og snakkede. Dronningen sad i midten i prægtige klæder med krone på hovedet. Han stillede sig bagved hende, og der var ingen, som kunne se ham. Når hun lagde et stykke kød på sin tallerken, tog han det og spiste det, og når hun fyldte sit glas drak han det ud. Hvor meget hun tog, fik hun dog ingenting, for det forsvandt øjeblikkelig. Da blev hun både bange og skamfuld og gik ind i sit værelse og gav sig til at græde, men han gik bagefter hende. "Er det djævelen," sagde hun, "kommer min redningsmand da aldrig." Da slog han hende i ansigtet og råbte: "Er han måske ikke kommet. Det har jeg ikke fortjent af dig. Nu er straffen over dig, din bedragerske." Derpå tog han kappen af, gik ind i salen og råbte: "Brylluppet er forbi, den rette konge er kommet." Alle konger og fyrster og adelsmænd, der var forsamlede, spottede ham og lo, men han gjorde ikke mange omstændigheder. "Vil I pakke jer eller ej," sagde han. De trængte sig om ham for at fange ham, men han drog sit sværd og sagde: "Væk med alle hoveder undtagen mit."I samme øjeblik lå de alle på gulvet, og han sad alene som konge af det gyldne bjerg.