Ác giả ác báo


İki Gezgin


Núi non không giáp mặt nhau được, nhưng con người ta, dù là kẻ xấu hay người tốt, thế nào cũng có lúc gặp nhau. Trên đường đi chu du hành nghề có lần bác thợ giày và bác thợ may lại gặp nhau. Bác thợ may dáng người nhỏ bé đẹp trai, tính hay bông đùa nhưng tốt bụng.
Nhìn hòm đồ người kia mang theo, bác thợ may đoán biết được người kia làm nghề gì, bác cất giọng hát một cách giễu cợt:
Khâu cho tôi một đường,
Rút sợi này cho tôi,
Vuốt chỉ bằng sáp nhé,
Nhớ đóng đanh cho chắc.
Vốn tính không ưa đùa giỡn, bác thợ giày nhăn mặt như đã uống phải dấm, lăm lăm xông tới như muốn vặn ngược cổ bác thợ may. Bác thợ may nhỏ nhắn nhoẻn cười, đưa rượu mời làm lành:
- Có chi mà giận nhau thế? Uống thử chút đỉnh, nuốt giận làm lành người anh em.
Bác thợ giày tu luôn một hơi dài, cơn giận trên mặt cũng biến luôn theo, bác trao trả bác thợ may bình rượu và nói:
- Tôi đã tu một hơi dài cẩn thận. Người ta thường nói uống nhiều, chứ không nói khát nhiều. Nào, giờ chúng ta cùng đi chu du thiên hạ chứ?
Bác thợ may trả lời:
- Tôi thế nào cũng được, miễn là bác cũng có hứng cùng đi tới thành phố lớn, nơi sẵn công ăn việc làm.
Bác thợ giày nói:
- Chính tôi cũng định tới thành phố lớn. Ở những nơi nhỏ bé hẻo lánh khó kiếm ăn lắm, còn ở nhà quê thì toàn người chân đất với nhau.
Hai người lại tiếp tục cuộc hành trình, nối gót nhau như chân chồn chạy trên tuyết.
Thời giờ thì sẵn, đồ ăn gặm cho qua ngày thì thiếu. Đến thành phố nào cũng vậy, cả hai bác đều đi dạo một lượt rồi đến chào phường thợ cùng nghề. Bác phó may lúc nào cũng tươi cười, đôi má ửng hồng, nom nhanh nhẹn nên hễ có việc là phường thợ gọi ngay đến làm. Bác cũng có duyên lắm. Cô con gái thợ cả lén cha mình ôm hôn bác phó may ở sau cửa ra vào. Mỗi khi hai người gặp nhau, ruột tượng của bác phó may lại phồng thêm lên một chút. Bác thợ giày vốn hay cau có, thấy vậy mặt càng nhăn nhó, bác thở dài:
- Càng láu cá ranh mãnh, lại càng hay gặp may!
Bác phó may lúc nào cũng tươi cười, ca hát, kiếm được bao nhiêu là bác chia ngay cho bạn. Hễ có dăm ba đồng xủng xẻng trong túi là bác móc ngay ra gọi món nhậu, khoái chí khoa tay đập bàn, đập ghế làm cho cốc chén nhảy múa trên bàn. Bác luôn nghĩ: Có đồng vào phải có đồng ra chứ. Sau một thời gian đi lang thang hai người tới một khu rừng rộng. Qua khu rừng là tới kinh đô, nhưng ngay cửa rừng lại có hai đường mòn dẫn tới kinh đô, một đường đi mất bảy ngày, con đường kia chỉ mất có hai ngày. Cả hai bác đều không biết đường nào là ngắn hơn. Họ ngồi xuống dưới gốc một cây sồi để bàn tính nên mang bao nhiêu ngày lương khô đi theo thì đủ để ăn dọc đường. Bác thợ giày nói:
- Người ta phải biết lo xa. Cứ tính dư ra một chút. Theo tôi thì nên mang bánh mì cho bảy ngày đi đường.
Bác thợ may nói:
- Lo xa cái gì nào? Còng lưng ra mà tải bánh bảy ngày như một con lừa, không hề được nhìn ngang, nhìn dọc. Tôi không có theo ai hết. Tiền để trong túi thì mùa nào cũng vậy, mùa hè cũng như mùa đông. Nhưng mà bánh mì, trời oi bức có khi vỏ khô, ruột mốc. Tôi không thể tính quẩn như vậy được. Tại sao chúng ta lại không tìm ra được con đường ngắn mà đi? Chỉ phải mang bánh mì ăn hai ngày, thế có phải là tốt không nào?
Thế rồi ai lo phận nấy, chỉ mua phần bánh như mình tính. Xong xuôi, cả hai băng rừng, phó mặc số phận cho trời.
Trong rừng yên tĩnh như trong nhà thờ. Không có gió thổi, không có tiếng suối róc rách, cũng chẳng có tiếng chim hót líu lo, và không một ánh nắng nào chiếu lọt qua được cành lá rậm rạp, bác thợ giày chẳng nói lấy một lời, vì bánh mì nặng trĩu trên lưng làm cho bác mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Mồ hôi chảy từng giọt trên bộ mặt cau có, tối xầm của bác. Trái lại, bác phó may vẫn tươi tỉnh, tay chân vung vẩy lấy lá thổi kèn hay cất giọng ca một bài, bác nghĩ bụng:
- Trời thấy ta vui nhộn thế này ắt trời mừng lắm!
Thoắt đã hai ngày trôi qua. Sang ngày thứ ba, bác thợ may đã ăn hết sạch cả bánh mà vẫn chưa đi hết cánh rừng, bác đã bắt đầu cảm thấy lo lo, nhưng rồi bác vẫn không nản lòng, còn tin mình sẽ gặp may. Tối thứ ba, bác đành nhịn đói nằm ngủ dưới gốc cây, sáng hôm sau đứng dậy đi tiếp với cái dạ dày lép kẹp. Ngày thứ tư cũng trôi qua y như thế. Khi bác thợ giày ngồi lên thân cây đổ ngang đường, lấy bánh ra ăn thì bác thợ may đành ngồi nhìn. Mỗi khi bác xin bánh thì người bạn đồng hành kia lại cười chế giễu và nói:
- Bác lúc nào cũng vui nhộn lắm cơ mà? Giờ thử nếm mùi xem khi người ta chẳng còn gì để vui nhộn nữa thì sẽ như thế nào? Loài chim sớm ra đã hót thì tối đến sẽ bị diều hâu ăn thịt.
Nói tóm lại, bác thợ giày là một con người nhẫn tâm.
Nhưng tới sáng ngày thứ năm thì bác thợ may khốn khó kia không đứng dậy nổi nữa, mệt lả không nói nổi lấy một lời, mắt đỏ ngầu, hai má trắng bệch. Lúc đó bác thợ giày bảo bác thợ may:
- Ngày hôm nay tôi đưa cho bác một miếng bánh, nhưng để đền bù vào đó bác phải để cho tôi chọc lấy mắt bên phải.
Bác thợ may bất hạnh kia chẳng biết cứu mình bằng cách gì nữa, bác muốn sống nên đành đồng ý. Bác khóc, hai mắt giàn giụa nước mắt, đoạn rồi bác dướn người, giơ mắt dể tên thợ giày - con người có trái tim đá - lấy mũi dao sắt khoét mắt phải. Chợt bác thợ may nhớ tới lời mẹ bác thường nói khi bác còn bé bị mẹ bắt quả tang ăn vụng trong bếp. "Ăn thì ăn cho căng bụng, nếu có bị đòn thì cắn răng mà chịu đựng nhé."
Đổi miếng ăn bằng một giá quá đắt, khi ăn xong, bác thợ may lại đứng dậy đi, quên ngay điều bất hạnh của mình, chẳng những thế bác còn tự an ủi:
- Còn một mắt cũng quá đủ để nhìn.
Nhưng sang ngày thứ sáu, cơn đói lại kéo đến, đói cồn cào, tim như muốn ngừng đập. Tối đến bác không còn đủ sức để ngồi xuống, cứ để mặc cho thân mình đổ vật xuống một gốc cây mà ngủ. Sáng ngày thứ bảy, sức đã kiệt, bác thợ may không đứng dậy nổi nữa, cảm thấy lưỡi hái thần chết đã nằm kề bên gáy. Lúc đó tên thợ giày nói:
- Tôi cũng muốn làm ơn làm phúc, cho bác một miếng bánh nữa, nhưng làm gì có chuyện cho không, bác phải để tôi khoét một mắt kia.
Bây giờ bác thợ may mới thấy mình sống không biết lo xa, đành ngồi cầu chúa tha lỗi cho mình và nói:
Được, bác cứ làm,
Những điều bác muốn,
Tôi đành cam lòng
Chịu theo số phận
Nhưng bác nhớ lấy,
Sự đời đổi thay
Ác giả ác báo.
- Tôi có làm gì bác đâu? Tôi đã từng chia ngọt xẻ bùi với bác trong những ngày tôi ăn nên làm ra. Nghề tôi phải khâu từng mũi kim, đường chỉ. Tôi mất đôi mắt sẽ không khâu được nữa, chỉ còn cách đi xin ăn. Khi tôi đã mù cả hai mắt, xin bác đừng bỏ tôi một mình ở lại đây, kẻo tôi chết vì đói khát.
Tên thợ giày lấy dao khoét nốt mắt trái của bác thợ may, đoạn đưa cho bác một miếng bánh để ăn, trao cho cái gậy và dắt đi theo mình.
Lúc mặt trời lặn thì hai người vừa ra khỏi rừng. Trước mặt họ là một cánh đồng, cách đó không xa, là một cái giá treo cổ. Tên thợ giày dẫn bác tới gần giá treo cổ, bỏ mặc bác ở đấy, rồi đi tiếp.
Mệt mỏi, đói khát, đau nhức làm cho bác thợ may khốn khổ kia ngủ thiếp đi một giấc cho tới sáng. Hôm sau, lúc tảng sáng, bác thức dậy, chẳng biết mình đang ở nơi nao.
Thấy đau rát ở mắt, bác thợ may liền lấy khăn tay thấm xuống đám cỏ có sương đọng, rồi đưa lên lau hai hốc mắt. Chỉ một lát sau, xảy ra một điều kỳ lạ: Nằm trong hai hốc mắt bây giờ là hai con ngươi đen lánh - Hai mắt bác thợ may đã sáng lại! Sau khi đã định thần, bác trông thấy mặt trời mọc sau lưng núi, dưới đồng bằng trước mặt là kinh đô to lớn, có thành quách nguy nga, có hàng trăm tháp chuông, trên ngọn tháp là chữ thập mạ vàng óng ánh dưới nắng mặt trời. Giờ bác đã nhìn rõ được từng chiếc lá trên cây, những đàn chim đang bay qua, thấy cả muỗi đang bay vo ve trong không khí. Bác lấy một chiếc kim khâu ở túi ra, xâu chỉ thấy lẹ như khi xưa, lòng bác tràn ngập vui sướng. Rồi bác quẩy gói lên lưng, quên ngay hết nỗi khổ đau vừa mới trải qua. Bác lại tiếp tục lên đường, vừa đi vừa ca hát, huýt sáo vang lừng.
Trước tiên, bác gặp một con ngựa non lông màu nâu đang chạy lăng xăng ngoài cánh đồng. Bác nắm bờm nó, định nhảy lên cưỡi để đi vào thành phố, nhưng ngựa van bác:
- Tôi còn bé bỏng, một người nhỏ nhắn như ông cưỡi lên cũng đủ gãy lưng. Xin ông để cho tôi chạy nhảy cho tới khi tôi tráng kiện. Có lẽ sau này thế nào cũng có lúc tôi có thể đền ơn ông.
Bác thợ may nói:
- Thôi được, thế thì chạy đi! Tao thấy mày cũng còn đang tuổi chạy nhảy nhởn nhơ.
Bác cầm roi đánh nhẹ vào lưng nó, ngựa mừng quá, cất vó chạy nhảy tung tăng qua các bụi thấp và qua các hố, rồi phi thẳng ra cánh đồng.
Từ ngày hôm sau đến giờ bác thợ may chưa có miếng nào vào bụng. Bác nghĩ:
- Ánh mặt trời chiếu vào đầy mắt ta, nhưng ta vẫn bị treo mồm. Giờ hễ gặp cái gì ăn tạm được là ta túm lấy ăn ngay.
Vừa lúc ấy có một con cò đi bệ vệ trên cánh đồng, hướng về phía bác thợ may. Bác nắm ngay chân nó và bảo:
- Đứng lại, đứng lại! Ta chẳng biết thịt ngươi ăn có ngon không nhưng cơn đói không cho phép ta kén cá chọn canh được nữa, ta đành phải cắt tiết ngươi, làm lông rồi đem quay mới được.
Cò đáp:
- Xin đừng có giết tôi, tôi là chim thần, loại chim có ích cho loài người, không ai dám đụng đến đâu. Nếu ông để tôi sống thì rồi thế nào cũng có lúc tôi có thể đền ơn ông.
Bác thợ may nói:
- Thế thì xin mời ông anh họ Cao kều bay đi!
Cò xoè cánh, thong thả bay đi, buông thõng đôi cẳng dài xuống.
Bác thợ may tự nhủ:
- Tình cảnh cứ như vậy, biết làm gì bây giờ? Cơn đói cứ mỗi lúc một tăng, bụng đã lép lại càng lép hơn. Giờ con nào tới gần thì con đó toi mạng.
Ngay lúc đó, bác nhìn thấy hai con vịt con ở ao đang bơi về phía bác. Bác nói:
- Ta vừa nói xong thì các chú bơi tới, thật đúng lúc quá.
Rồi bác túm luôn lấy một con, sắp vặn cổ thì vịt mẹ ở trong đám sậy vội bơi đến, há mỏ van xin bác hãy rủ lòng thương con nó. Vịt mẹ nói:
- Bác thử nghĩ xem, mẹ bác đau đớn biết chừng nào khi thấy người ta bắt bác đem đi giết.
Bác thợ may tốt bụng đáp:
- Thôi bà cứ yên tâm. Tôi trả con cho bà nuôi.
Rồi bác thả vịt con xuống ao.
Bác ngoảnh lại thì thấy mình đang đứng trước một cây cổ thụ, thân cây rỗng, có một đàn ong bay ra bay vào tấp nập. Bác thợ may nói:
- Đúng là mình ở hiền gặp lành! Mật ong sẽ làm cho mình tỉnh người và lại sức.
Nhưng kìa, ong chúa đã ra, giọng hăm dọa:
- Nếu bác chạm đến quân ta và phá tổ ta, lập tức hàng ngàn vạn chiếc ngòi sẽ đâm thẳng vào da bác mà đốt như hàng ngàn vạn mũi kim nóng đỏ. Nhưng nếu bác để tôi yên thân và bác hãy đi đường bác, thế nào cũng có lúc chúng tôi báo đền.
Bác thợ may, thấy không thể kiếm ăn được ở nơi đây. Bác nói:
- Đã ba keo không, keo thứ tư lại chẳng có gì. Đúng là một bữa trưa tồi tệ.
Bụng lép kẹp, bác cố lết đi vào thành phố. Tới được thành phố thì chuông nhà thờ đã điểm mười hai giờ trưa. Giờ này nhà hàng đã có cơm trưa bác có thể ngồi vào bàn gọi món ăn. Khi đã no bụng rồi, bác nói:
- Giờ ta cũng phải kiếm một việc gì làm chứ.
Bác đi quanh các phố, tìm đến một thợ cả của phường may và kiếm ngay được chỗ làm tốt. Vì khi trước học nghề gặp ông thầy giỏi, bác cắt may rất khéo nên chẳng bao lâu sau bác trở nên nổi tiếng. Ai cũng muốn mang vải đến nhờ bác thợ may người bé nhỏ may cho. Tiếng tăm bác một ngày một lan truyền trong vùng. Bác tự nhủ:
- Mình thế là đã đạt tới đỉnh cao của nghề may. Và cuộc sống cứ mỗi ngày một dễ chịu hơn.
Nghe tin đồn, nhà vua tuyển bác vào làm thợ may trong triều.
Nhưng sự đời thật hay éo le. Cũng ngày hôm đó, người bạn đồng hành cũ của bác cũng được phong chức thợ giày của triều đình. Khi hắn chợt nhận ra bác thợ may và thấy bác giờ đây lại có đôi mắt sáng, hắn đâm ra lo sợ, nghĩ bụng:
- Mình phải tìm cách trừ khử nó trước khi nó tính chuyện báo thù mình.
Nhưng thường, thì kẻ nào gieo gió ắt phải gặp bão. Tối hôm đó, ngay sau giờ làm việc - khi ấy trời đã chập choạng tối - tên thợ giày lần mò đến tâu với nhà vua:
- Tâu hoàng thượng, tên thợ may ngông cuồng cả gan nói liều là y cũng có thể tìm được chiếc vương miện vàng của hoàng thượng đã mất từ lâu.
Vua nói:
- Thế thì hay lắm!
Vua cho triệu bác thợ may sớm hôm sau phải vào triều. Vua lệnh cho bác phải tìm cho ra bằng được chiếc vương miện vàng đã mất kia. Bằng không sẽ bị trục xuất khỏi kinh đô.
Bác thợ may nghĩ bụng:
- Chết thật! Chỉ có những kẻ vô lại mới dám hứa làm những việc quá sức mình. Nhưng nếu nhà vua cứ khăng khăng một mực bắt ta làm một việc chẳng ai làm nổi, thì ta cũng chẳng cần chờ đến ngày mai làm gì, tốt nhất là ta lên đường rời khỏi kinh đô ngay ngày hôm nay.
Bác gói hành lý lại và ra đi, bác lưu luyến từ giã kinh đô, nơi mình đang ăn nên làm ra, vừa đi bác vừa ngoái cổ lại nhìn.
Bác tới bờ ao, nơi trước kia bác định bắt vịt con làm thịt thì thấy vịt mẹ đang đứng ở đó rỉa lông. Vịt mẹ nhận ngay ra bác và hỏi sao bác đi cứ cúi dầu xuống thế. Bác nói:
- Nếu bà biết chuyện gì đã xảy đến với tôi thì chắc bà chẳng lấy gì làm lạ.
Rồi bác kể cho vịt mẹ nghe về thân phận long đong của mình. Vịt nói:
- Nếu chỉ có thế thì tôi giúp bác được. Chiếc vương miện đó rơi xuống nước, nằm ngay dưới đáy ao, tôi có thể lấy ngay bây giờ. Bác cứ trải sẵn khăn ở bờ ao nhé.
Vịt mẹ cùng mười hai vịt con lặn xuống, năm phút sau, cả đàn ngoi lên, vịt mẹ bơi ở giữa, trên lưng vịt mẹ là chiếc vương miện. Đàn vịt con bơi chung quanh, thỉnh thoảng lấy mỏ đỡ để mẹ khỏi phải gắng sức nhiều. Đàn vịt bơi vào bờ, đặt vương miện lên khăn. Các bạn có biết chiếc vương miện ấy đẹp tráng lệ như thế nào không?
Dưới ánh nắng, chiếc vương miện lóng lánh như trăm ngàn viên ngọc tuyệt đẹp. Bác thợ may túm bốn góc khăn, bọc vương miện lại, rồi đem dâng vua. Vua mừng rỡ, thưởng cho bác một chiếc dây chuyền bằng vàng.
Tên thợ giày thấy mưu kế thứ nhất của mình thất bại, liền tìm mưu kế thứ hai. Y đến vua, tâu rằng:
- Muôn tâu hoàng thượng, tên thợ may lại huênh hoang nói là có thể làm được mô hình cung điện nhà vua bằng sáp ong, mô hình chính là cung điện nhà vua thu nhỏ lại, giống hệt nhau bên ngoài cũng như bên trong.
Vua lại cho triệu bác thợ may đến, truyền phải làm cung điện bằng sáp ong, bên ngoài cũng như bên trong phải giống hệt như cung điện của nhà vua. Nếu bác không làm xong việc ấy, hay có xong mà hãy còn thiếu dù chỉ một cái đinh đóng trên tường thì cũng bị đem bỏ ngục tối dưới lòng đất cho đến mãn đời.
Bác thợ may nghĩ bụng:
- Toàn là những chuyện bực mình! Thế này ai mà chịu nổi.
Nói xong, bác khăn gói lên đường.
Khi tới bên thân cây rỗng lúc trước, bác ngồi xuống, cúi gầm mặt. Đàn ong ở trong tổ bay ra. Ong chúa hỏi bác bị gió cứng cổ hay sao mà đầu gục xuống thế? Bác thợ may đáp:
- Không phải vậy đâu! Có một chuyện khác làm tôi buồn rầu.
Rồi bác kể cho ong chúa nghe về những việc mà vua truyền cho bác phải làm. Cả đàn ong vo ve rầm rì với nhau. Ong chúa bảo:
- Bác cứ yên tâm về nhà. Sáng mai, cũng giờ này, bác nhớ đem theo một chiếc khăn lớn đến đây, chắc chắn mọi việc sẽ đâu vào đấy.
Bác thợ may quay trở về nhà. Đàn ong bay đến cung điện nhà vua, bay qua các cửa sổ đang mở, bò khắp chốn khắp nơi trong cung điện, đo từng li từng tí thật chính xác. Đo xong, chúng bay về tổ. Cả dàn ong xúm vào làm mô hình bằng sáp, chiều tối hôm đó đã xong. Ong làm nhanh đến nỗi người ta có cảm tưởng lâu đài cứ hiện dần trong nháy mắt. Sáng hôm sau, khi bác thợ may đến thì cung điện nguy nga đã để sẵn đó rồi, một cái đinh ở tường cũng không thiếu, không thiếu cả một hòn ngói trên mái nhà. Mô hình trông mịn màng, trắng như tuyết, thơm phức mùi mật ong. Bác phó may lấy khăn bọc cẩn thận mô hình lại, rồi đem dâng vua. Nhà vua rất đỗi ngạc nhiên, truyền trưng bày mô hình ở giữa phòng khách lớn nhất, rồi thưởng cho bác thợ may một ngôi nhà to xây bằng đá. Nhưng tên thợ giày vẫn chưa từ bỏ ý xấu. Lần thứ ba, y lại đến tâu vua:
- Muôn tâu hoàng thượng! Trước đây hoàng thượng có cho đào giếng giữa sân rồng nhưng nước không phun lên. Nghe chuyện đó, tên thợ may đã cả quyết là mình có thể đào để cho nước phun lên cao bằng đầu người, trong suốt như pha lê.
Vua cho đòi bác thợ may đến, rồi phán rằng:
- Ngay sáng mai, nếu trong sân rồng của trẫm không có tia nước phun lên như lời ngươi hứa hẹn thì đao phủ sẽ chém đầu ngươi ngay tại sân đó.
Chẳng còn phải suy nghĩ lâu la gì nữa, bác thợ may đáng thương vội vã rời khỏi kinh thành. Nghĩ mình chuyến này mất mạng như chơi, nước mắt bác cứ thế trào ra. Trong lúc bác còn đang ủ rũ đi lang thang thì con ngựa non bác thả khi trước lao tới, giờ nó đã là một con ngựa màu nâu tuyệt đẹp. Ngựa nói:
- Giờ đã đến lúc con có thể trả ơn bác. Con biết bác đang cần gì. Bác cứ yên tâm chẳng mấy chốc con sẽ hoàn tất chuyện đó cho bác. Mời bác lên yên lưng con nay đủ sức để hai người như bác ngồi lên rồi.
Bác thợ may lại thấy vững dạ, nhảy phắt lên lưng ngựa. Ngựa phi nước đại vào kinh đô, vào thẳng sân rồng trong cung điện. Ngựa chạy ba vòng quanh sân, rồi nhanh như chớp, ngựa lấy hết sức bình sinh giáng bốn vó xuống nền sân. Tiếng đất nứt kêu răng rắc, một tảng đất ở sân bắn tung lên không trung, văng qua mái cung điện, tiếp theo là một tia nước phun lên, cao bằng người cưỡi ngựa. Nước sạch và trong như pha lê, ánh nắng mặt trời như nhảy múa cùng tia nước. Nhìn cảnh ấy, vua hết sức ngạc nhiên, chạy lại ôm hôn bác thợ may trước mặt mọi người.
Nhưng hạnh phúc nào được lâu dài. Vua có một bầy con gái, cô nào cũng xinh đẹp, nhưng không có con trai. Lần thứ tư, tên thợ giày nham hiểm kia lại đến tâu vua:
- Muôn tâu hoàng thượng, tên thợ may vẫn chưa chừa cái thói huênh hoang của mình. Giờ y lại khoe là nếu y thích, y có thể sai khiến một em bé trai rơi từ không trung xuống để làm con vua.
Vua cho triệu bác thợ may tới và phán:
- Nếu nội trong chín ngày, ngươi dâng trẫm một đứa con trai, thì lúc ấy ngươi có thể kết bạn trăm năm cùng con gái cả của trẫm.
Bác thợ may nghĩ bụng:
- Phải nói phần thưởng ấy lớn thật, ai mà chẳng muốn nhưng quả anh đào lại ở cao quá tầm tay mình, cố vươn lên hái thì cành dưới chân sẽ gãy và mình rơi ngay xuống đất.
Bác đi về nhà, ngồi gác chân lên bàn may, tính xem phải làm gì bây giờ. Bác than thở:
- Làm sao mà sống được bây giờ? Ta đành ra đi, ở đây chắc chắn không thể sống yên thân.
Bác bèn vội vã rời kinh thành. Khi qua cánh đồng, bác gặp lại người bạn cũ của mình - anh bạn cò - đang đi đi lại lại, thỉnh thoảng lại dừng chân, dáng ra vẻ như một nhà hiền triết, đứng ngắm nghía một con ếch rồi nuốt chửng. Cò đi về phía bác và chào. Cò cất giọng:
- Tôi thấy bác khăn gói trên lưng, có việc gì mà bác phải từ giã kinh đô thế?
Bác thợ may kể cho cò nghe chuyện nhà vua đòi hỏi bác phải làm những việc mà mình không tài nào làm được. Bác phàn nàn về số phận long đong của mình.
Cò nói:
- Có gì mà bác phải lo phiền cho bạc tóc ra? Tôi sẽ giúp bác qua cơn hoạn nạn. Tôi vẫn đi đón hài nhi mang về kinh đô. Để tôi đem về cho một hoàng tử từ giếng nước thần. Bác về nhà và cứ yên tâm chờ. Chín ngày nữa bác đến cung vua chờ, tôi sẽ có mặt ở đó.
Bác thợ may về nhà. Đúng ngày hẹn, bác có mặt ở cung điện. Ngay lúc đó, cò bay đến, gõ cửa sổ. Bác thợ may mở cửa sổ cho cò. Ông bạn cao cẳng bước vào, bước đi khoan thai trên nền đá cẩm thạch. Mỏ cò ngậm một đứa bé đẹp như thiên thần đang giơ tay đòi theo hoàng hậu. Cò đặt đứa bé vào lòng hoàng hậu. Hoàng hậu ôm ấp và hôn đứa bé, lòng rất đỗi vui mừng, tim như ngừng đập.
Trước khi từ biệt, cò lấy chiếc túi trên vai xuống, dâng biếu hoàng hậu. Trong túi là kẹo đủ màu để làm quà cho các công chúa. Cô cả thì không được phần kẹo nào cả mà được một người chồng là bác thợ may vui tính. Bác thợ may nói:
- Đối với tôi thật đúng như là trúng số độc đắc!
Tên thợ giày phải đóng giày cho bác thợ may dùng để nhảy hôm cưới. Sau đó có lệnh y phải vĩnh viễn rời khỏi kinh đô. Y chạy vào rừng như người mất hồn và có lẽ đã chết ở trong đó, vì không ai trông thấy hoặc nghe nói gì về y nữa.


Dịch: Lương Văn Hồng, © Lương Văn Hồng
Dağ dağa kavuşmaz, ama insan insana kavuşur derler ya! Kötüyle iyi de aynen öyle! Nitekim bir kunduracıyla bir terzi karşılaştılar.
Terzi kısa boylu ve hoş bir adamdı, hep neşeliydi, iyilikseverdi. Karşıdan kunduracının gelmekte olduğunu gördü; çantasını görünce onun mesleğini anlayıverdi ve dalga geçercesine bir türkü tutturdu:
Bana bir dikiş atsana,
İyi iplik kullansana;
Bir sağ, bir sol, bir çapraz,
Göster numaranı biraz.
Ama kunduracı şaka kaldıran biri değildi. Sirke içmişçesine yüzünü buruşturdu ve terzinin yakasına yapışacakmış gibi oldu. Ufak adam gülmeye başladı, ona şişesini uzatarak: "Niyetim kötü değildi, iç şundan biraz da öfken yatışsın!" dedi.
Kunduracı hatırı sayılır bir yudum aldı ve suratı düzeliverdi. Şişeyi terziye geri vererek: "Bundan zarar gelmez; içmesine çok iç, yeter ki susuz kalma! Beraber dolaşalım mı?" diye sordu.
"Olur" dedi terzi. "İstersen büyük bir şehre gidelim, orada çok iş çıkar."
"Ben de zaten onu istiyordum" diye cevap verdi kunduracı. "Küçük yerlerde para kazanılmıyor, köylerde de millet yalınayak dolaşıyor."
Böylece birlikte yola çıktılar ve karda gezen gelincik gibi dikkatli yürüdüler. Yemek yemek ve dinlenmek için vakitleri vardı. Şehre vardıklarında oraya buraya gittiler, iş yerlerine uğradılar. Terzi çok dinç ve neşeli gözüktüğü ve de kıpkırmızı yanakları olduğu için herkes ona iş verdi; hatta talihi yaver gittiğinde ayrılmadan önce işverenin kızı tarafından öpüldüğü de oldu. Kunduracıyla buluştuğunda onun çıkınında hep daha fazla para bulunuyordu.
Asık suratlı kunduracı ağzını çarpıtarak, "Şans hep şakacıdan yanadır zaten" diyordu.
Ancak terzi buna gülüp geçti ve ne kazandıysa arkadaşıyla paylaştı. Cebinde birkaç kuruş tıngırdadı mı, onu sevinçle masaya atıyor ve içkileri hep o ısmarlıyordu. Onun felsefesi şuydu: "Haydan gelen huya gider!"
Bir süre böyle birlikte dolaştıktan sonra büyük bir ormana geldiler; bu ormandan geçen yol bir krallığa varıyordu. Ama oraya iki patikadan ulaşılıyordu. Bunlardan biri yedi gün, öbürü iki gün sürüyordu. Ancak hangi yolun daha kısa olduğunu ikisi de bilmiyordu.
İki gezgin bir ağacın altına oturarak bir daha nasıl görüşeceklerini ve yanlarına ne kadar ekmek alacaklarını kararlaştırdı.
Kunduracı, "Biraz ilerisini düşünmek gerek; ben yedi günlükten de fazla ekmek alacağım yanıma" dedi.
"Ne? Yedi günlük ekmeği katır gibi sırtımda mı taşıyayım yani! Hiçbir yere bakmadan mı yürüyeyim hep? Ben Tanrı'ya güvenirim, gerisi vız gelir. Cebimde para varsa bu, yaz için de geçerli, kış için de! Oysa ekmek zamanla kurur ve üstü küflenir. Zaten paltom ancak dizlerime kadar geliyor. Doğru yolu neden bulmayalım ki? İki günlük ekmek yeter bence."
Her biri kendine göre ekmek satın aldıktan sonra işi şansa bırakarak birlikte ormana gittiler.
Orman tıpkı bir kilise gibi sessizdi, rüzgâr yoktu, dere akmıyordu, kuş ötmüyordu ve sık ağaç dalları arasından güneş ışığı bile sızmıyordu.
Kunduracı hiç konuşmadı, sırtındaki ağır yük onu rahatsız etmekteydi, kan ter içinde kalmıştı.
Terziyse çok neşeliydi, oradan oraya sıçrıyor, ıslık çalıyor, şarkılar söylüyor ve "Bu kadar neşeli oluşum Tanrı'yı da sevindirir" diye aklından geçiriyordu.
İki gün böyle geçti, üçüncü gün yol bitmek bilmedi. Terzi ekmeğini bitirdi, sonra da içine bir korku düştü; yine de cesaretini kırmadı ve işi şansa ve Tanrı'ya bıraktı.
Üçüncü gün aç aç bir ağacın altına çöktü, ertesi gün de aç kalktı.
Dördüncü gün de böyle geçti. Kunduracı devrik bir ağaca oturmuş ekmeğini yerken terzi ona bakmaktan başka bir şey yapamadı. Bir parça ekmek istediğinde kunduracı alay etti: "Sen hep neşeliydin, şimdi neşesiz olmayı da öğren bakalım!" dedi. "Sabah çok erken öten kuşların hakkından akşamları atmaca gelir." Kısacası adam acımasızdı.
Beşinci gün zavallı terzi ayağa kalkamadı. Öyle yorgundu ki, ağzından tek kelime çıkmadı. Yanakları soldu, gözleri kan çanağına döndü.
Bunun üzerine kunduracı, "Sana bugün bir parça ekmek veririm, ama karşılığında sağ gözünü oyarım!" dedi.
Yaşamayı seven talihsiz terzi ne yapacağını bilemedi. Yine iki gözü iki çeşme ağladı, sonra bu işe razı oldu. T aş yürekli kunduracı keskin bir bıçakla onun sağ gözünü oyup çıkardı. Terzi evde mutfaktan yemek araklarken annesinin söylediği bir sözü anımsadı: "İstediğin kadar yemek ye, ama acıya da katlanmasını bil!"
Kendisine pahalıya mal olan ekmeği yiyip bitirince ayağa kalktı, uğradığı şanssızlığı unutarak tek gözle de yeterince görebileceğini mırıldanarak kendi kendini teselli etti.
Ama altıncı günü yine açlık bastırdı, yüreği paralanır gibi oldu. Akşam olunca bir ağacın dibine çöktü.
Yedinci gün yorgunluktan kalkamadı; ölüm ensesindeydi sanki!
Kunduracı, "Hadi yine acıdım sana, biraz daha ekmek vereyim. Ama bunu bedava almayacaksın; karşılığında öbür gözünü de oyacağım" dedi.
İşte o zaman terzi şimdiye kadar hayatı nasıl hafife almış olduğunu anlayarak Tanrı'dan af diledi ve sonra kunduracıya:
"Ne yapacaksan yap sen; acı çekeceksem çekeyim; Tanrı herkesi hemen cezalandırmaz; yapılan kötülüklerin acısı bir gün çıkar nasılsa! İyi günlerimizde ben her şeyimi seninle paylaştım. Benim işim dikiş dikmek. Gözlerim yoksa artık dikiş dikemem, ister istemez dilenciliğe başlayacağım yani. Kör kaldıktan sonra beni burada tek başıma bırakma, yoksa susuzluktan ölürüm" dedi.
Tanrı tanımaz kunduracı eline aldığı bıçağı terzinin sol gözüne sapladı. Sonra ona bir ekmek verdi, bir de baston; ama peşinden gelmesine razı oldu.
Güneş batarken bir ormana geldiler; orman girişindeki tarlaya bir darağacı konulmuştu. Kunduracı kör terziyi orada bırakarak yoluna devam etti.
Yorgunluktan, acıdan ve açlıktan kıvranan talihsiz terzi orada bütün gece uyudu. Gün ağardığında uyandı, ama nerede olduğunu bilemedi.
Darağacında iki zavallı günahkâr asılıydı; birinin başına bir karga konmuştu.
Adamlardan biri, "Uyandın mı, kardeş?" diye sordu.
Öbürü, "Evet, uyanığım" diye cevap verdi.
"O zaman sana bir şey söyleyeceğim" dedi asılı adam. "Bu gece darağacından üzerimize düşen kırağıyla yüzünü yıkayan kimsenin eğer körse gözleri açılır. Körler bunu bir bilse, dünyaya yeniden gelmiş gibi olurlar; çünkü böyle bir şey olacağı akıllarına bile gelmez."
Bunu duyan terzi mendilini çıkararak çimenlere bastırdı, kırağı eridi; ıslak mendiliyle göz çukurlarını siler silmez, darağacmdaki adamın dediği gibi, göz çukurlarına bir çift taptaze göz yerleşiverdi.
Ve az sonra terzi dağların ardında batmakta olan güneşi gördü; şimdi önündeki düzlükte görkemli kapıları ve yüzlerce kulesiyle koskoca bir saray vardı; altın kubbelerinin tepesindeki haçlar parlamaya başladı.
Terzi artık her ağaçtaki yaprakları tek tek seçebiliyor, başının üzerinden uçan kuşlarla havada oynayıp duran sivrisinekleri görebiliyordu. Cebinden bir iplik çıkararak iğneden geçirince yüreği sevinçle çarptı. Yere diz çöktü ve kendisini bağışlayan Tanrı'ya şükrederek sabah duasını yaptı. Çan tokmağı gibi asılı ve rüzgârın etkisinde sallanarak birbirine çarpan günahkârları da unutmadı.
Sonra çıkınını sırtladı, çektiği çileleri unutarak şarkı söyleye söyleye ve de piposunu tüttüre tüttüre yola koyuldu.
Karşısına ilk çıkan şey tarlalar arasından dört nala gelen kahverengi bir tay oldu. Hemen onun yelesine yapışarak üzerine binip şehre gitmek istedi. Ama hayvan özgürlüğünü rica etti:
"Henüz çok gencim ben; senin gibi zayıf bir terzi bile belimi çökertir. Büyüyünceye kadar bırak beni gideyim. Bir zaman gelir, bunun karşılığını görürsün belki" dedi.
"Hadi git" dedi terzi. "Bakıyorum sen de haşarı bir taysın!" Ve bir ağaç dalıyla sırtına vurunca hayvan sevinçle arka bacaklarıyla havayı tekmeledi ve tarlaya daldı.
Ancak terzi dünden beri yemek yememişti. "Güneş gözlerimi doyurdu, ama midemi doyuracak ekmek nerde! Karşıma ilk çıkacak şey yenebilecek cinstense beri gelsin!" diye söylendi.
Tam o sırada bir leylek ciddi ciddi tarlada ilerlemekteydi.
"Dur, dur" diye bağırdı terzi ve hayvanı bacağından yakaladı. Etin lezzetli mi bilmem, ama başka çarem yok; karnım öyle aç ki, kafanı kopardıktan sonra seni kızartıp yiyeceğim."
"Bunu yapma!" dedi leylek. "Ben kutsal bir kuşum, kimseye zararım olmaz, insanlara çok yardım ederim. Hayatımı bağışlarsan günün birinde karşılığını görürsün."
"Al başını git o zaman, uzun bacak!" dedi terzi.
Leylek ayağa kalktı, uzun bacaklarını kısarken geniş kanatlarıyla yavaşça havalandı.
"Ne olacak benim halim?" diye kendi kendine söylendi terzi. "Bir taraftan durmadan acıkıyorum, öte yandan midem bomboş. Artık karşıma ne çıkarsa hapı yuttu demektir!"
Derken gölde yüzen yavru ördek sürüsüyle karşılaştı. "Sanki çağrılmış gibi geldiniz!" diyerek birkaç tanesini yakaladığı gibi boyunlarını koparmaya çalıştı. Ama sazların arasından çıkan yaşlı ördek, yani yavruların anası, bağıra çağıra, kanat çırpa çırpa terzinin yanma vararak yalvara yakara ondan yavrularına acımasını rica etti.
"Düşünsene, biri seni kaçırıp da öldürmeye kalksa, annen ne yapardı?"
"Tamam, tamam, kes sesini" dedi iyi kalpli terzi. "Al yavrularını" diyerek ördekleri yine suya bıraktı.
Sonra geri döndü ve yaşlı bir ağacın dibinde durdu; ağacın gövdesi yarı yarıya oyuktu; oraya hep yabanarıları girip çıkıyordu.
"iyiliğimin karşılığını görüyorum galiba" dedi terzi. "Bal beni canlandıracak."
Ama arı kraliçe dışarı çıkarak, "Halkıma sataşır da yuvamı yıkarsan cildine on bin iğne saplanır, ona göre!" diyerek onu tehdit etti. "Ama bizi rahat bırakıp da yoluna devam edersen bir gün bizler de sana yardım ederiz."
Terzi burada da bir şey yapamayacağını anladı.
"Uç tabak boştu, dördüncüsü de işe yaramadı" diye mırıldandı.
Ve boş mideyle şehre yollandı; öğlen olunca bir lokantaya girdi, bir masanın başına çöktükten sonra karnı doyuncaya kadar yemek yedi. Sonra, "Şimdi canım çalışmak istiyor" dedi.
Şehrin merkezine indi, bir usta aradı; kendine yatacak yer de buldu.
Mesleğine çocukluğunda başladığı için çok geçmeden ünlü oluverdi; herkes ceketini küçük terziye yaptırmış olmakla övünüyordu. Her geçen gün adı daha da fazla duyuldu.
"Mesleğimde daha fazla ilerleyemem artık" dedi. "Yine de her gün daha iyi iş çıkarıyorum."
Ve sonunda kral onu saray terzisi yaptı.
Ama işte, dünyada neler olmuyor ki! Aynı gün arkadaşı, yani kunduracı da saray kunduracısı olmuştu.
Kunduracı arkadaşını görünce ve hele onun iki gözünün de yerinde olduğunu fark edince vicdanı sızladı. Kendi kendine, o benden intikam almadan ben onun mezarını kazayım, daha iyi diye söylendi. Ama başkasının mezarını kazan o mezara kendi düşer derler ya!
O akşam iş bittikten sonra, hava kararırken gizlice kralın yanma vardı:
"Kral hazretleri, şu terzi çok cesur bir adam, ama bu kez zırvalıyor. Eskiden kaybolan altın tacı yine bulabileceğini söyleyip duruyor" dedi.
Öyle olsun bakalım diyen kral ertesi gün terziyi çağırtarak altın tacı bulmasını, şayet bulamazsa şehri sonsuza dek terk etmesini emretti.
"Şu işe bak! Benden olmayacak şey istiyor. Yani şu aksi kral benden hiç kimsenin başaramadığı bir şeyi istediğine göre yarına kadar ne bekleyeyim ki! Hemen yola çıksam daha iyi" diye düşündü terzi.
Çıkınını bağladı; surların kapısından dışarı çıkar çıkmaz şansını zorladığı ve o kadar rahat ettiği bir şehre artık dışardan bakmak zorunda kalacağı için çok üzüldü.
Derken, ördeklerle karşılaştığı havuza geldi. Yavrularını suya salan yaşlı ördek ana sahilde oturmuş gagasıyla vücudunu temizliyordu. Terziyi hemen tanıdı ve neden başını eğik tuttuğunu sordu.
"Başıma gelenleri bir bilsen, şaşarsın!" diye cevap veren terzi kaderini anlattı.
"Hepsi buysa, mesele yok" dedi ördek. "Vaktiyle o taç buradaki suya düştü. Dipte yatıyor. Biz hemen dalıp onu çıkaralım. Sen su başında mendilini yere aç."
Ve on iki yavrusuyla birlikte havuza daldı; beş dakika sonra yine suyun yüzüne çıktı. Tacın üstüne oturmuştu; kanatlarını dinlendirdi. On iki yavrusu da onun etrafında dönerken tacın taşınmasına gagalarıyla yardım ettiler. Sonra hep birlikte karaya çıkarak tacı mendilin üstüne koydular. Öyle görkemli bir taçtı ki bu, aklın almaz! Güneş ışıkları üzerine vurduğunda yüz bin kızıl yakutun saçtığı ışığı saçıyordu.
Terzi mendilinin dört köşesini bir araya getirerek bağladıktan sonra onu krala götürdü. Kral o kadar sevindi ki, terzinin boynuna altın bir zincir astı. Kunduracı planının boşa çıktığını görünce başka bir şey düşünerek kralın yanına vardı. "Kral hazretleri, bizim terzi ipin ucunu kaçırdı galiba. Şimdi de tutmuş tüm sarayı, içini dışını, tüm eşyalarıyla bal- mumundan yapabileceğini iddia ediyor" dedi.
Kral terziyi çağırttı ve ona tüm krallık sarayını eşyasıyla birlikte balmumundan yapmasını emretti; bunu yerine getirmediği takdirde -yani duvarda tek bir çivi eksik kalmayacak ve de çatısında tek bir kiremit eksik olmayacak şekilde- yapamadığı takdirde kendisine ömür boyu zindan cezası vereceğini söyledi.
"Yine başım belada; buna can mı dayanır" diye kendi kendine söylenen terzi çıkınını sırtına yüklediği gibi yola çıktı.
İçi oyuk ağaca gelince, dibine çöktü ve başını öne düşürdü. Arılar hemen onun etrafına üşüştü. Arı kraliçe ona boynunu niye uzattığını ve niye başını öne düşürdüğünü sordu.
Terzi, "Benim derdim başka" diyerek kralın kendisinden istediklerini anlattı.
Arılar vızıldaşmaya başladılar, sonunda kraliçe arı, "Sen şimdi eve git, ama yarın bu saatte yine burada ol; gelirken de büyük bir bez getir. Her şey yoluna girecek, merak etme!" dedi.
Terzi yine eve döndü. Ama arılar hep birlikte uçuşarak sarayın pencerelerinden girdiler ve her köşeye yuvalanıp göz açıp kapayıncaya kadar tüm sarayı balmumuyla kapladılar. Akşam olduğunda her şey bitmişti. Ertesi sabah terzi karşısında balmumuyla yapılmış bir saray buldu. Duvarlarında tek bir çivisi ve çatısında tek bir kiremiti eksik değildi; yumuşak ve beyazdı, mis gibi bal kokuyordu. Terzi onu dikkatlice mendiline koyarak krala götürdü.
Kral buna hayran kaldı; o kadar ki, büyük salonun bir köşesine yerleştirdi. Karşılığında da terziye taştan yapılma koskoca güzel bir ev hediye etti.
Ama kunduracı yılmadı, üçüncü kez krala giderek ona şöyle dedi:
"Terzi sarayın avlusundaki havuzdan hiç su fışkırmadığını duymuş. Kendisi şimdi orada bir insan boyunda, billur gibi bir su fışkırtacağını savunuyor."
Kral terziyi çağırttı ve "Yarın sabah avlumda insan boyunda su fışkırdığını görmezsem aynı yerde cellat bir kelle eksiltecek!" dedi.
Zavallı terzi uzun boylu düşünmedi, kendisini kapı dışına attı; çünkü bu bir ölüm kalım meselesiydi. Gözyaşları iki sıra halinde yanaklarından aktı.
Böyle üzgün üzgün yürürken, özgürlük bağışladığı tay karşısına çıkıverdi. Artık taylıktan çıkmış, yağız bir at olmuştu.
"Bana yaptığın iyiliğin karşılığını verme saati geldi şimdi. Neye ihtiyacın olduğunu biliyorum ben, onu yerine getireceğim. Bin bakalım sırtıma, iki kişiyi rahat taşırım ben" dedi.
Terzi rahatladı, hemen atın sırtına atladı ve at dörtnala şehre koştu ve dosdoğru sarayın avlusuna girdi. Uç kez şimşek gibi etrafında dolaştı ve üçüncüsünde yere çakıldı. Aynı anda müthiş bir gürültü duyuldu: toprağın içinden adam boyunda bir su fışkırdı ve bu su billur gibiydi! Güneş ışınları hemen üzerinde oynaşıp yansımaya başladı.
Kral bunu görünce hayran kaldı ve herkesin önünde terziyi kucakladı.
Ama bu şans uzun sürmedi. Kralın yeterince kızı vardı, hepsi birbirinden güzeldi, ama oğlu yoktu.
Kötü niyetli kunduracı dördüncü kez kralın huzuruna çıkarak:
"Kral hazretleri, şu terzi çok büyük laf ediyor. Şimdi söylediğine bakılırsa krala havadan bir oğlan çocuk getirecekmiş!"
Kral terziyi çağırtarak şöyle dedi: "Dokuz gün içinde bana bir oğlan çocuğu getirirsen en büyük kızımla evlenebilirsin."
"Bu, gerçekten büyük bir ödül" diye düşündü terzi. "Hani elimden bazı şeyler gelmiyor değil, ama bu kez koparacağım kiraz ta ağacın tepesinde. Oraya çıkarsam dallar kırılır, aşağı düşerim."
Eve döndü, bacaklarını çaprazlayarak tezgâhının başına geçti ve ne yapsam diye düşündü. Sonunda, "Olmuyor" dedi. "Buradan çekip gitsem iyi olacak, çünkü rahatça yaşayamıyorum."
Çıkınını bağladıktan sonra şehir dışına çıktı.
Meraya vardığında, eski dostu leyleği gördü. Bilge kişiler gibi bir aşağı bir yukarı dolaşıyor, arada bir duruyor, gagasına aldığı bir kurbağayı inceledikten sonra yutuveriyordu.
Leylek yanma yaklaşarak, "Bakıyorum, çıkınını sırtlamışsın; şehri niye terk etmek istiyorsun?"
Terzi ona kralın ne istediğini, kendisinin bunu yerine getiremeyeceğini anlattı; yani talihine küsmüştü!
"Bunu kendine dert etme! Sana yardım edeceğim!" dedi leylek. "Uzun süredir şehre hep kundaklı çocuklar getiriyorum ben. Bu seferde kuyudan küçük bir prens çıkarıp getireyim sana. Hadi şimdi evine dön ve sakin ol. Dokuz gününü sarayda geçir, ben tam zamanında gelirim."
Terzi eve gitti ve kararlaştırılan zamanda saraya geldi. Çok geçmeden leylek de uçarak geldi ve pencereyi tıkırdattı. Terzi açtı ve uzun bacaklı leylek yavaşça içeri girdi, vakur adımlarla mermer zeminde yürüdü. Gagasında kollarını kraliçeye uzatan melek kadar güzel bir çocuk vardı. Leylek çocuğu kadının kucağına koydu.
Kraliçe çok duygulandı, sevincine diyecek yoktu; çocuğu öptü.
Leylek uçup gitmeden önce omzundaki seyahat çantasını kraliçeye verdi, içinde kâğıda sarılmış renk renk şekerler vardı; onları küçük prenseslere paylaştırdılar. En büyüğü bir şey almadı, onun yerine kendisine eş olarak terziyi verdiler. Annem hep haklıymış meğer; çünkü "Tanrıya inananın şansı yaver gider" derdi hep.
Kunduracıya damadın düğünde giyip dans edeceği bir çift ayakkabı yaptırttılar, sonra da sürgüne gönderdiler. Ormana giden yolu darağacının önünden geçiyordu. Öfkeden kudurmak üzereydi; derken başına güneş vurdu, uyumak istedi. Ama o iki karga bağıra bağıra ona saldırdı ve gagalarıyla her iki gözünü oydu. Terzi deliler gibi ormana daldı. Ölmüş olmalıydı, çünkü o günden sonra kendisini ne gören oldu ne de duyan.