Chàng trai vui vẻ


Bror Lystig


Ngày xửa ngày xưa nổ ra một cuộc đại chiến. Khi chiến tranh kết thúc, rất nhiều binh sĩ được giải ngũ. Chàng trai vui vẻ cũng được giải ngũ, và khi đó gia tài chàng mang theo người chỉ là chiếc bánh mì và bốn đồng tiền hình chữ thập. Chàng đã lên đường trở về chỉ có như vậy.
Vào lúc đó thánh Petrus đóng giả thành một người ăn mày nghèo khó ngồi ở bên đường, khi chàng trai vui vẻ đi ngang qua, bèn chìa tay xin của bố thí. Chàng vui vẻ nói:
- Bác ăn mày thân mến, tôi biết cho bác gì đây? Tôi vốn là binh sĩ nhưng nay giải ngũ rồi, gia tài của tôi chỉ là một cái bánh mì và bốn đồng tiền hình chữ thập ra, chẳng còn có gì khác. Nếu những thứ đó hết thì tôi cũng phải ngồi ăn xin như bác thôi. Thế nhưng tôi rất vui lòng cho bác một ít.
Nói rồi, chàng chia chiếc bánh mì làm bốn phần, cho vị môn đồ của Giêsu đó một phần, còn cho thêm một đồng tiền hình chữ thập nữa. Thánh Petrus nói lời cảm tạ rồi bước đi. Tiếp sau đó ông lại biến thành một người ăn mày khác ngồi ở bên đường mà người lính đó phải đi qua. Khi chàng trai vui vẻ đi tới trước mặt, như lần trước, ông lại chìa tay xin của bố thí. Chàng trai vui vẻ lại nói những lời giống như lần trước, lại cho một phần tư chiếc bánh mì và một đồng tiền hình chữ thập. Thánh Petrus cám ơn xong lại bỏ đi, rồi biến thành một người ăn mày khác, lần thứ ba ngồi bên vệ đường để xin chàng trai vui vẻ. Chàng lại cho ông ta phần bánh mì thứ ba và một đồng tiền hình chữ thập. Thánh Petrus cảm tạ. Chàng lại đi tiếp tục. Chàng trai vui vẻ bây giờ chỉ còn lại một phần tư chiếc bánh mì và một đồng tiền hình chữ thập.
Chàng tới một quán ăn bên đường, ngồi ăn hết phần bánh mì còn lại và mua một đồng tiền bia để uống. Ăn uống xong chàng lại lên đường.
Vào lúc đó, thánh Petrus biến thành một người lính giải ngũ giống như chàng, đi ngược lại phía chàng và hỏi:
- Chào anh bạn, anh bạn có thể cho tôi một miếng bánh mì và một đồng để uống bia?
Chàng trai vui vẻ trả lời:
- Giờ thì lấy đâu ra những thứ đó! Tôi là lính đã giải ngũ, chẳng có gì ngoài chiếc bánh mì đen và bốn đồng tiền hình chữ thập. Nhưng gặp ba người ăn mày ở trên đường, tôi đã cho mỗi người một phần tư bánh mì và một đồng tiền hình chữ thập. Bánh mì còn lại tôi đã ăn ở trong quán ăn dọc đường, đồng tiền chữ thập cuối cùng tôi đã mua bia uống rồi. Giờ thì túi rỗng. Nếu anh cũng vậy thì ta cùng nhau đi ăn xin.
Thánh Petrus nói:
- Không, việc ăn xin đó chẳng phải làm đâu! Tôi biết một chút về nghề y, nên cần bao nhiêu tôi cũng có thể kiếm được.
- Tốt thôi! - Chàng trai vui vẻ nói - Tôi chẳng biết gì về nghề y cả, nên tôi chỉ còn cách đi ăn xin một mình thôi.
Thánh Petrus bảo:
- Thì cứ đi cùng. Nếu tôi kiếm được tiền thì chia cho anh một nửa.
Chàng trai vui vẻ nói:
- Thế thì còn gì bằng!
Và cả hai lên đường. Họ tới trước một căn nhà nông dân thì nghe có tiếng than khóc rất to ở trong nhà, bèn bước vào thì thấy một người đàn ông ốm nặng nằm thoi thóp thở, người đàn bà đang than khóc. Thánh Petrus nói:
- Đừng khóc, đừng kêu la nữa. Tôi sẽ giúp chồng bà khỏe trở lại!
Nói xong, thánh Petrus lấy từ túi áo ra một loại dầu cao xoa cho người đàn ông, chỉ trong nháy mắt người bệnh bình phục. Ông ta đứng lên và hoàn toàn khỏe. Người đàn ông và bà vợ rất mừng rỡ, nói:
- Chúng tôi không biết cảm tạ ông thế nào, đưa cho ông những gì?
Nhưng thánh Petrus chẳng muốn lấy gì. Hai người nông dân càng khẩn cầu, thì ông lại càng từ chối. Chàng trai vui vẻ hích vai thánh Petrus một cái và nói:
- Thì nhận một chút thôi. Cũng có lúc chúng ta cũng cần dùng mà.
Cuối cùng thì người đàn bà dắt ra một con cừu, nói với thánh Petrus rằng ông ta nhất định phải nhận cho. Nhưng thánh Petrus vẫn không chịu nhận. Khi đó, chàng trai vui vẻ đẩy ông bạn đường sang một bên và nói:
- Cứ nhận đi, đồ ngốc. Chúng ta cũng cần tới nó!
Thánh Petrus đành phải đồng ý và bảo:
- Được rồi, tôi nhận con cừu này. Thế nhưng tôi không vác nó đâu. Anh muốn có thì anh vác nó đi nhé!
Chàng trai vui vẻ nói:
- Chẳng có vấn đề gì! Tôi sẵn sàng vác nó trên vai!
Nói rồi chàng trai vác con cừu lên vai. Họ lại lên đường, và tới một khu rừng. Bỗng chàng trai vui vẻ cảm thấy con cừu nặng hẳn lên, lại thêm bụng đói, liền nói với thánh Petrus:
- Ở chỗ này thuận tiện đấy! Chúng ta có thể giết cừu làm bữa chén?
- Tôi thấy cũng được đấy. Có điều tôi không thích chuyện bếp núc. Anh muốn nấu ăn thì cầm lấy chiếc nồi này. Trong thời gian đó tôi muốn đi dạo quanh một chút, đợi anh nấu chín sẽ quay lại. Thế nhưng trước khi tôi quay lại, anh chớ có ăn trước đấy, tôi biết đúng lúc mà quay về - Thánh Petrus nói.
- Anh cứ đi đi, tôi đã biết cách nấu ăn mà, nấu ngon là đằng khác.
Thế là thánh Petrus ra đi, chàng trai vui vẻ giết cừu, nhóm lửa, cho thịt cừu vào nồi, rồi nấu.
Nhưng thịt cừu nấu xong mà vị môn đồ của chúa Giêsu vẫn chẳng quay lại. Chàng trai vui vẻ mang thịt cừu trong nồi ra, thái nhỏ. Bỗng chàng nhìn thấy quả tim cừu.
- Nghe đồn cái món này ngon nhất! - chàng trai nói và thử nếm một chút, nhưng rồi cứ nếm mãi cho tới khi ăn hết cả quả tim cừu.
Cuối cùng thì thánh Petrus cũng quay trở lại và bảo:
- Anh có thể ăn cả con cừu, tôi chỉ muốn ăn tim cừu thôi. Anh lấy nó cho tôi nhé!
Chàng trai vui vẻ bèn cầm dao và dĩa, lật đi lật lại thịt cừu, ra dáng như tìm kỹ lưỡng, nhưng làm sao có thể tìm thấy tim cừu! Cuối cùng chàng đành phải nói:
- Không có tim cừu!
- Không có thì đi đâu rồi? - Môn đồ của Giêsu hỏi.
- Điều đó tôi không biết. Anh xem, chúng ta đúng là hai đứa ngốc, ra sức tìm tim cừu mà chẳng tìm ra. Kỳ thực con cừu này không có tim!
- Ồ! Thật kỳ lạ! Mọi động vật đều có tim, vì sao con cừu này lại không có?
- Không có, đúng là không có, người anh em ạ! Cừu không có tim. Anh chỉ cần nghĩ kỹ thì sẽ nghĩ ra rằng: cừu đúng là không có tim mà!
Thánh Petrus nói:
- Được rồi! Việc này xem như xong! Đã không có tim thì thịt cừu tôi chẳng ăn tí nào đâu, anh ăn một mình hết đi nhé!
- Tôi chẳng ăn hết đâu! Số còn lại sẽ cho vào bao mang theo! - Chàng trai vui vẻ nói xong và ăn hết nửa con cừu, số còn lại thì cho vào trong chiếc bao.
Họ tiếp tục lên đường. Thánh Petrus lúc đó dùng phép thuật tạo ra một con sông lớn chắn ngang đường đi buộc họ phải vượt qua con sông đó. Thánh Petrus nói:
- Anh sang trước nhé!
- Không, anh sang trước! - Chàng trai vui vẻ trả lời, trong bụng nghĩ rằng: "Nếu nước sông rất sâu thì mình chẳng qua sông nữa!"
Khi đó thánh Petrus đã lội qua sông, nước sông chỉ ngập đến đầu gối ông ta. Thế là chàng trai vui vẻ cũng muốn lội qua, nhưng nước sông bỗng dềnh lên ngập cho tới tận cổ của chàng. Thế là chàng trai kêu lên:
- Người anh em, mau cứu tôi với!
Thánh Petrus nói:
- Anh có thừa nhận là anh đã ăn tim con cừu đó hay không?
- Không! - Chàng trai vui vẻ đáp: "Tôi chưa từng ăn tim cừu!
Khi đó nước lại tiếp tục dềnh lên, ngập tới cằm của chàng trai vui vẻ, khiến chàng ta kêu toáng lên:
- Mau cứu tôi với, người anh em!
Thánh Petrus hỏi lại một lần nữa:
- Anh có thừa nhận là đã ăn tim con cừu đó hay không?
- Không, tôi chưa từng ăn tim cừu! - Chàng trai trả lời.
Nhưng thánh Petrus không muốn dìm chàng trai chết đuối, nên đã cho nước sông rút xuống để chàng trai qua được sông.
Họ lại tiếp tục lên đường và tới một vương quốc, ở đó họ hay tin, công chúa đang thập tử nhất sinh. Chàng trai vui tính nói với thánh Petrus:
- Ô chà, người anh em! Mẻ lưới này khá đấy. Làm cho công chúa khỏe lại thì chúng ta suốt đời no đủ.
Thấy thánh Petrus vẫn thản nhiên, chàng trai vui tính thúc giục:
- Nào, rảo cẳng lên một chút, người bạn hảo tâm. Chúng ta phải tới đó đúng lúc mới được.
Thánh Petrus vẫn đủng đỉnh, mặc cho chàng trai vui tính luôn hối thúc. Rồi họ hay tin, công chúa đã chết trên giường bệnh. Chàng trai vui vẻ nói:
- Đủng đỉnh như anh làm hỏng việc rồi.
Thánh Petrus đáp:
- Cứ bình tĩnh nào, tôi không những chữa cho con bệnh khỏe mạnh lại, mà còn có thể làm người chết sống lại.
- Nếu làm được việc ấy thì anh làm thử xem sao. Làm được thì nửa giang sơn này sẽ là của chúng ta.
Cả hai đi vào hoàng cung. Bầu không khí đau thương tràn ngập nơi đây. Thánh Petrus tâu với nhà vua, rằng ông có thể làm cho công chúa sống lại. Thánh Petrus được dẫn tới phòng của công chúa. Ông bảo:
- Hãy mang cho tôi một nồi nước!
Khi nồi nước được mang tới, ông bảo mọi người lui ra ngoài, chỉ chàng trai vui tính được ở lại. Rồi ông cắt rời chân tay khỏi thân và cho tất cả vào trong nồi. Ông nhóm lửa đun, đun cho tới mức thịt rã khỏi xương. Rồi ông nhặt xương ra, xếp chúng đúng theo thứ tự cơ thể con người. Xếp xong, ông bước lên phía trước một bước, nói ba lần:
- Nhân danh tất cả các thánh thần, người chết hãy đứng dậy!
Khi lời nói lần thứ ba vừa dứt thì công chúa trẻ đẹp đứng bật dậy. Nhà vua hết sức vui mừng nói với thánh Petrus:
- Nếu khanh muốn, trẫm sẵn sàng chia cho khanh nửa giang sơn này!
Nhưng thánh Petrus lại nói:
- Thần không đòi hỏi gì cả.
Anh chàng vui tính nghĩ: "Người đâu sao lại ngốc đến thế" và hích vai đẩy thánh Petrus sang bên và nói:
- Sao lại có người ngu đến thế. Anh không cần, nhưng tôi thì cần!
Thánh Petrus chẳng nói năng gì cả. Nhà vua thấy người bạn cùng đi lại muốn được một cái gì đó, bèn bảo viên tổng quản cho người đó một bao vàng đầy ắp.
Cả hai lại tiếp tục lên đường. Khi tới một khu rừng, thánh Petrus nói với chàng trai vui tính:
- Giờ chúng ta chia nhau vàng đi!
Chàng trai vui tính đáp:
- Đúng đấy, chúng ta chia vàng đi!
Thánh Petrus đem vàng ra chia làm ba phần. Chàng trai vui vẻ nghĩ: "Đầu ông này có vấn đề rồi. Chia tất cả ra làm ba phần trong khi chỉ có hai người!
Thánh Petrus nói:
- Tôi đã kiểm tra rất cẩn thận, một phần dành cho tôi, một phần dành cho anh, một phần dành cho người đã ăn tim cừu!
- Ồ, tôi là người đã ăn tim cừu. - Chàng trai vui tính nói và vơ luôn phần vàng đó.
Thánh Petrus nói:
- Sao lại có chuyện ấy nhỉ? Cừu không có tim mà.
- Ái chà chà, người anh em ơi, anh nghĩ đi đâu thế? Cừu cũng có tim như bất kỳ mọi con động vật khác. Tại sao chỉ riêng con cừu này là không có tim?
- Được, cứ coi như là thế đi. Anh cứ giữ lấy phần vàng đó. Thế nhưng từ giờ thì tôi sẽ đi đường tôi mà không đi cùng với anh nữa - Thánh Petrus nói.
- Anh bạn hảo tâm, tùy ý anh thôi. Chúc anh thượng lộ bình a - Anh chàng vui tính đáp.
Thánh Petrus rẽ vào đường khác và tiếp tục cuộc hành trình của mình. Anh chàng vui tính nghĩ:
- Anh ta đi đường khác lại là tốt. Đúng là một ông thánh kỳ lạ, tiền có, nhưng không biết cách tiêu tiền, tiêu xài phung phí, để rồi lại tay không.
Anh chàng vui tính lên đường, anh tới vương quốc kia thì nghe rằng công chúa vừa mới qua đời. Chàng nghĩ: "Chà, đó cũng là dịp may! Ta sẽ làm cho nàng sống lại. Thế nào ta cũng được thưởng hậu hĩnh!." Thế là chàng tới hoàng cung tuyên bố là mình có thể làm người chết sống lại. Vua nghe tin, có một người lính giải ngũ có thể làm người chết sống lại. Vua đoán, người đó có thể là anh chàng vui tính nên bán tín bán nghi. Nhà vua bèn hỏi quần thần. Các quan tâu rằng, nhà vua cứ thử xem, vì đằng nào thì công chúa cũng đã chết.
Chàng trai vui tính sai mang cho mình một nồi nước. Chàng bảo mọi người lui ra ngoài. Chàng cắt chân tay khỏi thân, rồi cho tất cả vào nồi. Chàng nhóm lửa nấu như khi trước chàng thấy thánh Petrus làm. Chàng nấu cho đến khi thịt rã khỏi xương thì vớt xương ra và xếp chúng lại. Nhưng vì chàng không biết cách xếp, nên xương nằm không theo đúng thứ tự. Khi chàng bước lên một bước và nói:
- Nhân danh tất cả các thánh thần, người chết hãy đứng dậy!
Chàng nói thế ba lần liền, nhưng đống xương xếp hình không động đậy. Chàng trai vui vẻ thốt lên:
- Cô gái kia, cô gái kia hãy đứng dậy mau không thì có chuyện bây giờ!
Chàng vừa dứt lời thì thánh Petrus dưới dạng một người lính đã giải ngũ xuất hiện và nói:
- Quân vô thần, mi làm gì thế này, xương xếp lẫn chỗ thì làm sao người chết có thể đứng dậy được!
Chàng trai vui vẻ đáp:
- Ôi, anh bạn hảo tâm, tôi đã trổ hết tài mình rồi đấy!
- Lần này thì tôi giúp để anh được thoát nạn, nhưng tôi báo cho anh biết, nếu anh còn tiếp tục làm việc này thì sẽ gặp bất hạnh đấy. Anh không được đòi vua thưởng hay nhận tiền công.
Nói xong, thánh Petrus xếp xương theo đúng thứ tự, rồi nói ba lần câu phù chú:
- Nhân danh tất cả các thánh thần, người chết hãy đứng dậy!
Lời nói vừa dứt, công chúa đứng lên, dáng khỏe mạnh, xinh đẹp. Thánh Petrus biến mất qua đường cửa sổ. Chàng trai vui tính rất mừng, vì ông việc kết thúc tốt đẹp, nhưng vì đã hứa không nhận thưởng nên chàng bực tức, nghĩ bụng: "Mình cũng không sao hiểu nổi con người này, tay này thì đưa, nhưng lại lấy nó đi bằng tay khác!"
Nhà vua hỏi chàng trai vui vẻ muốn thưởng gì, nhưng vì không được nói muốn lấy gì, nên chàng ra hiệu ám chỉ, nhà vua sai người mang tới cho chàng đầy túi vàng. Chàng nhận và vác túi vàng lên vai đi. Vừa mới ra tới cổng hoàng cung chàng đã bị thánh Petrus chặn hỏi:
- Sao lại như thế nhỉ? Tôi cấm anh không được nhận bất cứ một thứ gì, sao anh lại nhận đầy một túi vàng?
Chàng trai vui vẻ đáp:
- Họ bắt phải lấy thì tôi biết làm thế nào!
- Tôi nói cho anh biết, nếu việc này tái diễn thì anh sẽ khốn đốn đấy!
- Ồ, người anh em ơi, đừng lo! Giờ có vàng đầy túi thì cần gì phải làm cái việc rửa xương kia.
Thánh Petrus bảo:
- Vàng rồi cũng sẽ hết. Để anh không tái phạm, tôi cho anh một phép lạ, anh ước gì thì cái đó có ngay ở trong túi. Chúc anh hạnh phúc, anh sẽ không gặp lại tôi đâu.
- Cầu chúa phù hộ cho anh! - Chàng trai vui vẻ nói, trong bụng thầm nghĩ: "Đúng là anh chàng kỳ quặc. Anh đi thì tôi mừng, chứ đi theo anh làm gì."
Chàng trai vui tính vác túi vàng đi đây đó mà chẳng nghĩ tới phép lạ của chiếc túi. Chàng tiêu pha vung vẩy như lần thứ nhất. Khi chỉ còn bốn xu (dập hình chữ thập) thì cũng là lúc chàng bước vào quán ăn. Chàng nghĩ: "Thì tiêu hết quách đi!" Chàng tiêu hết một xu cho ăn, hết ba xu cho rượu.
Trong lúc chàng vui tính đang ăn uống thì chàng ngửi thấy mùi ngỗng quay. Nhìn quanh, chàng thấy chủ quán đang quay hai con ngỗng. Chàng chợt nhớ tới lời dặn của người bạn đường: cầu mong thứ gì thì thứ đó có ở trong túi. Chàng nghĩ: "Ái chà, mình muốn có hai con ngỗng quay kia." Rồi chàng ra ngoài, đứng trước cửa quán nói:
- Tôi cầu mong, hai con ngỗng quay kia bay vào trong túi.
Chàng vừa nói xong, mở chiếc túi ra thì thấy hai con ngỗng quay đã ở trong túi. Chàng nói:
- Trời, phải thế chứ. Đúng là mong được, ước thấy!
Chàng ra ngoài đồng cỏ, lấy ngỗng quay ra ăn. Trong lúc chàng đang ăn ngon miệng thì có hai người thợ bước tới, họ nhìn chằm chằm vào con ngỗng quay mà chàng chưa động đến. Chàng trai vui vẻ nghĩ: "Mình ăn một con đã no nê rồi." Chàng gọi hai người kia và nói:
- Lấy con ngỗng quay này mà ăn. Ăn thì nhớ chúc sức khỏe tôi nhé!
Bọn họ cám ơn chàng, mang ngỗng quay vào trong quán, gọi rượu và bánh mì, rồi bày ngỗng ra bàn để ăn. Vợ chủ quán thấy ngỗng quay thì nói với chồng:
- Hai người này có ngỗng quay, ông thử xem ngỗng quay trong lò của nhà mình còn không!
Chồng vào xem lò quay ngỗng, thấy chỉ có lò không, bèn hô hoán:
- Quân ăn trộm, chúng bay định ăn không ngỗng quay à, trả tiền ngay mới được ăn, không thì đánh cho một trận nhừ tử bây giờ!
Hai người khách đáp:
- Chúng tôi không phải dân ăn trộm. Con ngỗng quay này do người lính ngồi trên đồng cỏ đưa tặng chúng tôi.
- Đừng có hòng qua mặt ta nhé! Người lính có tới đây, nhưng đó là con người thật thà. Chính mắt ta thấy anh ta tay không ra khỏi quán. Bọn mày chính là quân ăn trộm. Trả tiền mau!
Bọn họ không có tiền trả, chủ quán cầm gậy phang đuổi họ ra khỏi quán.
Chàng trai vui vẻ vẫn tiếp tục cuộc hành trình, chàng tới một vùng có tòa lâu đài to đẹp, gần đó lại là một quán trọ. Chàng bước vào quán trọ tính thuê giường ngủ qua đêm, chủ quán trọ từ chối và nói:
- Ở đây hết chỗ rồi, toàn khách sang trọng thuê.
Chàng trai vui vẻ nói:
- Kỳ lạ thật, khách sang trọng mà lại không ở trong lâu đài to đẹp!
Chủ quán đáp:
- Nó có lý do của nó. Ai vào đó ngủ đêm, khó mà sống tới sáng hôm sau.
Chàng trai vui vẻ nói:
- Nếu đã có người dám thử thì tại sao tôi không dám thử nhỉ!
Chủ nhà trọ nói:
- Cẩn thận nào, mất mạng như chơi đấy!
- Làm sao mà chết ngay được! Cứ đưa chìa khóa và đồ ăn, đồ uống cho tôi đi.
Thế là chủ quán đưa đồ ăn, đồ uống cho chàng. Chàng trai vui tính bước vào lâu đài, lấy đồ ra ăn uống ngon lành. Ăn xong chàng thấy buồn ngủ, vì không có giường nên chàng nằm ngay trên nền nhà, rồi thiu thiu ngủ. Đêm khuya chàng bị thức giấc bởi tiếng huyên náo. Chàng trấn tĩnh nhìn quanh thì thấy có chín con quỷ đang ở trong phòng. Chúng cầm tay nhau nhảy múa thành vòng tròn quây lấy chàng. Chàng vui vẻ nói:
- Bọn mày muốn nhảy bao lâu cũng được, nhưng không được xán gần lại ta!
Bọn quỷ cứ thắt dần vòng tròn, cái chân bẩn thỉu của chúng tiến sát người chàng. Chàng trai vui vẻ quát lớn:
- Để cho ta yên nào, quân ma quỷ!
Nhưng chúng càng náo loạn làm cho chàng nổi cáu và quát:
- Hừm, tao sẽ làm cho chúng mày phải im lặng!
Chàng cầm ghế phang túi bụi vào bọn chúng, nhưng làm sao một người có thể chống lại chín. Chàng đánh phía trước, thì những con phía sau xông vào túm tóc chàng mà giật.
- Đồ quỷ sứ chúng bay. Tao hết sức khó chịu với chúng mày! Đợi mà xem! Cả chín con quỷ vào ngay trong túi!
Chàng thét lên, khi lời chàng vừa dứt thì cả chín con quỷ đã ở trong túi, chàng thắt nút lại và ném chiếc túi vào một góc. Giờ gian phòng trở lại yên tĩnh. Chàng trai vui vẻ nằm ngủ một giấc cho tới khi trời sáng rõ. Lúc đó, chủ nhà trọ và nhà quý tộc chủ lâu đài sang xem có chuyện gì xảy ra không. Nhìn thấy chàng trai vui vẻ tươi cười họ hết sức ngạc nhiên và hỏi:
- Bọn quỷ không làm gì được anh à?
- Sao lại không làm được gì? Giờ thì cả chín con quỷ đang ở trong túi của tôi. Từ nay các vị có thể yên tâm sống trong lâu đài, không còn có con quỷ nào tới đây náo loạn nữa.
Vị quý tộc cám ơn và thưởng tặng chàng nhiều thứ, đồng thời mời chàng ở lại lâu đài, hứa sẽ chu cấp cho chàng đầy đủ. Chàng trai vui vẻ đáp:
- Không, tôi quen sống nay đây mai đó rồi, tôi chỉ muốn lên đường.
Chàng trai vui vẻ lên đường. Chàng tới một lò rèn, đặt chiếc túi lên cái đe thợ rèn, nhờ bác thợ rèn cùng phó nhỏ nện búa vào cái túi. Họ ra sức nện búa, bọn quỷ trong tú la ó om xòm. Lát sau chàng mở túi xem thấy tám con quỷ đã chết. Con thứ chín còn sống, nó lách chui ra khỏi túi, chạy về địa ngục.
Ngay sau đó chàng trai vui tính lại lên đường đi chu du thiên hạ. Ai mà biết được chàng đi những đâu thì tha hồ mà kể.
Thời gian trôi mau, giờ đây chàng đã là một ông già, tới gặp một vị ẩn sĩ nổi tiếng vì lòng thương người và nói:
- Tôi đã đi khắp bốn phương. Giờ chỉ còn mong được lên thiên đường.
Vị ẩn sĩ đáp:
- Trên đời chỉ có hai con đường, đường xuống địa ngục thì rộng và dễ đi, đường lên thiên đường vừa hẹp, vừa lại khó đi.
Chàng trai vui vẻ nghĩ bụng: "Chỉ có thằng ngốc mới đi con đường vừa hẹp, vừa khó đi." Chàng lên đường, chọn con đường rộng, dễ đi mà đi. Cuối cùng chàng tới trước cánh cổng lớn đen xì - cánh cổng địa ngục. Chàng trai vui vẻ gõ cổng. Người canh cổng ngó ra xem ai. Hắn giật mình hoảng sợ khi nhìn thấy chàng trai vui vẻ, vì hắn là con quỷ thứ chín trốn được ra khỏi chiếc túi của chàng. Hắn vội cài then cổng cho chặt, rồi chạy lại chỗ con quỷ đầu đàn và nói:
- Ở bên ngoài có một tên vác túi muốn vào. Đừng cho nó vào nhé. Nó có thể hóa phép nhét cả địa ngục vào trong cái túi. Nó đã từng giam tôi ở trong cái túi đó và đập cho tôi một trận đến nhũn người ra.
Chàng trai vui tính được thông báo, phải đi khỏi nơi này. Chàng nghĩ bụng: "Nếu họ không thích cho mình vào thì mình lên thiên đường tìm một chỗ trú chân vậy." Chàng quay lại và tiếp tục lên đường. Chàng đi thẳng tới cổng trời và gõ cổng. Đúng lúc thánh Petrus ngồi canh cổng. Chàng trai vui tính nhận ra ngay và nghĩ: "Mình gặp đúng người bạn cũ. Chắc mọi việc sẽ tốt đẹp thôi!."
Nhưng thánh Petrus nói:
- Ta thật không sao tin được là anh lại tới thiên đường!
- Người anh em, cho tôi vào nhé! Tôi mong có một nơi để đi về. Nếu như họ tiếp nhận cho tôi vào địa ngục thì tôi đã chẳng phải lên đây!
- Không! Anh không được vào! - Thánh Petrus nói.
- Được thôi! Nếu anh không muốn cho tôi vào thì anh nhận lại chiếc túi của anh vậy! Từ nay về sau, tôi chẳng cần gì ở nơi anh nữa! - chàng trai vui vẻ nói.
Thánh Petrus bảo:
- Thế thì đưa nó lại đây!
Chàng trai vui vẻ đưa trả chiếc túi qua hàng rào của thiên đường. Thánh Petrus nhận lấy, rồi đem treo chiếc túi ở bên ghế ngồi của mình. Khi đó, chàng trai vui vẻ mới nói:
- Bây giờ tôi mong, chính tôi ở trong chiếc túi đấy!
Sau tiếng "ào ào" là chàng đã vào được trong thiên đường và chui vào trong túi. Thánh Petrus cũng chỉ còn cách là để cho chàng ở lại bên trong đó mà thôi!


Dịch: Lương Văn Hồng, © Lương Văn Hồng
Der rasede engang en stor krig, og da den var forbi, fik mange soldater afsked, og deriblandt bror Lystig. Han fik ikke andet end et lille brød og fire skilling, og dermed drog han af sted. Apostlen Peter havde imidlertid forvandlet sig til en gammel tigger og sat sig ude på landevejen, og da bror Lystig kom forbi, bad han om en almisse. "Hvad skal jeg give dig, min ven," sagde soldaten, "jeg har fået min afsked og ejer ikke andet end et lille brød og fire skilling. Men du skal alligevel få noget." Derpå delte han brødet i fire dele, gav tiggeren den ene og også en skilling. Peter takkede mange gange og gik videre. Han forvandlede sig nu til en anden tigger og satte sig længere henne på landevejen. Da bror Lystig kom forbi, bad han igen om noget og fik det samme som forrige gang. Han sagde mange tak og forvandlede sig til en anden tigger og fik den tredie del af brødet og den tredie skilling. Bror Lystig gik nu videre med det sidste stykke brød og den sidste skilling. Han gik så ind i en kro, spiste brødet og købte for en skilling øl. Da han havde spist, drog han videre og mødte igen Peter, der havde forvandlet sig til en gammel soldat. "Kan du ikke give mig en bid brød og en skilling til lidt øl," sagde Peter. "Bare jeg vidste, hvor jeg skulle få det fra," sagde bror Lystig, "jeg har fået min afsked og ejede ikke andet end et brød og fire skilling og så mødte jeg tre tiggere på landevejen, og de fik hver et stykke brød og en skilling. Det sidste spiste jeg selv i kroen og jeg brugte min sidste skilling til noget øl. Nu er jeg blank, og hvis du heller ikke har noget, kan vi gå ud og tigge sammen." - "Det er ikke nødvendigt," svarede Peter," - "jeg er lidt af en doktor, og jeg kan nok fortjene, hvad vi behøver." - "Ja, så må jeg nok tigge, for sådan noget forstår jeg mig ikke på," sagde bror Lystig. "Kom du bare med mig," sagde Peter, "du skal få halvdelen af det, jeg tjener." Det var bror Lystig vel fornøjet med, og de drog videre sammen.
Nogen tid efter kom de forbi et bondehus, hvorfra der lød skrigen og jamren. Da de gik derind så de, at manden lå for døden, og konen hulkede højt. "Hold op med at græde," sagde Peter, "nu skal jeg gøre din mand rask." Derpå tog han en salve og smurte på den syge, som øjeblikkelig blev rask og rejste sig op. "Hvordan skal vi dog lønne dig," sagde manden og konen ude af sig selv af glæde. Men Peter ville ikke have noget, hvor meget de så trængte ind på ham. "Tag dog noget, vi har jo brug for det," hviskede bror Lystig og gav ham et puf i siden. Til sidst kom konen med et lam og bad Peter tage det, men han ville ikke. Bror Lystig gav ham igen et puf og sagde: "Tag det dog, dit fæhovede." - "Ja, ja, så lad mig få det," sagde Peter endelig, "men du skal bære det." - "Det skal jeg såmænd nok," sagde bror Lystig og tog det på skulderen. De gik nu videre og kom ind i en skov. Bror Lystig var træt af at slæbe på lammet og var også sulten. "Her er god plads til at stege lammet," sagde han. "For min skyld gerne," svarede Peter, "men jeg forstår mig ikke på at lave mad, det må du om. Her har du en kedel. Jeg går imidlertid lidt frem og tilbage, men du må ikke begynde at spise, før jeg kommer. Jeg skal nok komme i rette tid." - "Gå du kun," sagde bror Lystig, "jeg skal nok lave maden." Peter gik sin vej og bror Lystig slagtede lammet, gjorde ild på og lagde kødet i kedlen. Det var allerede mørt og Peter var endnu ikke kommet. Da tog bror Lystig det op, skar det itu og tog hjertet ud. "Det skal være det bedste," sagde han og spiste det altsammen. Langt om længe kom Peter tilbage. "Du kan gerne få hele lammet," sagde han, "giv mig bare hjertet." Bror Lystig tog kniv og gaffel og lod som han søgte ivrig efter det, men han kunne naturligvis ikke finde det, og til sidst sagde han: "Der er slet intet." - "Hvor kan det da være?" spurgte apostlen. "Det ved jeg ikke," svarede bror Lystig, "jo, det er sandt, vi er jo nogle rigtige fæhoveder, et lam har jo slet intet hjerte." - "Det er noget helt nyt," sagde Peter, "det har jo alle dyr, hvorfor skulle et lam så ikke have det." - "Nej, vist har det ej. Tænk dig nu om, så ved du det jo meget godt." - "Ja, ja," sagde Peter, "men når der ikke er noget hjerte, vil jeg slet ikke have noget, så kan du spise det alene," - "Så tager jeg med, hvad jeg levner," sagde bror Lystig, spiste det halve lam og puttede resten i sin ransel.
De gik nu videre, og Peter fik det indrettet sådan, at de pludselig kom til en dyb flod, som de måtte over. "Gå du nu først," sagde han. "Nej, gå du først," svarede bror Lystig. "Hvis vandet er for dybt, bliver jeg her," tænkte han. Peter gik nu ud i vandet, og det nåede ham ikke længere end til knæene. Bror Lystig gik nu også derned, men vandet steg og steg og nåede ham til sidst lige til halsen. "Hjælp," råbte han. "Vil du så tilstå, at du har spist; lammets hjerte?" - "Nej," sagde bror Lystig, "jeg har ikke gjort det." Da steg vandet højere endnu, til det nåede ham til munden. "Hjælp," råbte han igen. "Vil du så tilstå, at du har spist hjertet?" - "Nej, jeg har ikke gjort det." Peter ville alligevel ikke have, han skulle drukne og vandet sank, og han slap op på land.
Nu gik de af sted igen, og kort efter kom de til et land, hvor prinsessen var dødssyg. "Nåda," sagde bror Lystig, "der er noget for os at gøre. Hvis vi kan gøre hende rask, er vi da forsørget for livstid." Men de kom ikke hurtig nok af sted, syntes han. "Tag benene på nakken, kammerat," sagde han, "lad os sørge for at komme tidsnok." Men Peter gik stadig langsommere, hvor meget end bror Lystig skyndede på ham, og en dag fik de at vide, at prinsessen var død. "Der kan du se, hvad der kommer af dit driveri," sagde bror Lystig. "Ti bare stille," svarede Peter, "Jeg kan mere end helbrede syge. Jeg kan også gøre døde levende igen." - "Ja, så er det godt," sagde bror Lystig, "derved må vi da i det mindste vinde det halve kongerige." De gik nu ind i slottet, hvor der herskede dyb sorg, og Peter sagde til kongen, at han ville gøre hans datter levende igen. "Bring mig en kedel vand," sagde han. Da han havde fået den, lod han alle, undtagen bror Lystig, gå ud. Han skar så alle lemmerne af den døde, kastede dem i vandet og satte kedlen over ilden. Da alt kødet var faldet fra benene, tog han de hvide knogler og lagde dem i orden på et bord. Derpå sagde han: "I den hellige treenigheds navn befaler jeg dig, stå op." Da han havde sagt det tre gange rejste kongedatteren sig sund og frisk. Kongen var meget glad og sagde til Peter: "Forlang, hvad du vil. Om du så vil have mit halve kongerige, skal du få det." - "Jeg vil ikke have noget," svarede Peter. "Sikken et fæ," tænkte bror Lystig og gav ham et puf i siden. "Vær nu ikke så dum," sagde han, "selv om du ikke bryder dig om det, har jeg nok lyst til at få noget." Peter ville alligevel ikke have noget, men da kongen så, at bror Lystig nok ville, lod han skatmesteren fylde hans ransel med guld.
De drog nu videre igen, og da de kom ind i skoven sagde Peter: "Lad os nu dele guldet," - "javel," svarede bror Lystig. Peter delte det nu i tre dele. "Han har nok en lille skrue løs," tænkte bror Lystig, "han laver tre bunker og vi er kun to." - "Nu har jeg delt det," sagde Peter, "en bunke til mig, en til dig og en til den, der har spist lammets hjerte." - "Det har jeg," sagde bror Lystig og strøg i en fart guldet til sig, "det har jeg virkelig." - "Det kan da ikke være sandt," sagde Peter, "et lam har jo intet hjerte." - "Sikke noget snak," sagde bror Lystig, "et lam har virkelig et hjerte lige så godt som alle andre dyr." - "Ja, ja," sagde Peter, "behold du det kun altsammen, men jeg vil ikke blive hos dig længere, jeg drager videre alene." - "Ja, værsgod," sagde soldaten, "lykkelig rejse."
Peter gik nu en anden vej og bror Lystig tænkte: "Det er såmænd godt, at han stikker af. Han er dog en løjerlig fyr." Han havde penge nok nu, men forstod ikke at passe på dem, og satte dem over styr eller gav dem bort og da der var gået en lille tid, havde han ikke flere. Da kom han til en by og hørte, at prinsessen netop var død. "Hende skal jeg nok gøre levende igen," tænkte han, "og så skal jeglade mig ordentlig betale." Han gik op på slottet og tilbød, at opvække den døde. Kongen havde hørt, at en afskediget soldat drog omkring og gjorde døde levende igen, og troede, det var bror Lystig. Men han havde ingen rigtig tillid til ham og rådspurgte først sine ministre, som mente han nok turde vove forsøget, da hans datter jo alligevel var død. Bror Lystig forlangte nu en kedel vand, bød alle gå ud, skar lemmerne af prinsessen og kastede dem på ilden, ganske som han havde set Peter gøre. Vandet kom i kog, kødet faldt fra benene og han lagde nu skelettet sammen på bordet, men da han ikke vidste, i hvilken orden det skulle være, lagde han det helt galt. Så stillede han sig foran bordet og sagde: "I den hellige treenigheds navn befaler jeg dig, stå op." Han sagde det tre gange, men den døde rørte sig ikke. Så sagde han det tre gange til, men det hjalp heller ikke. "Stå dog op, din pokkers tøs," råbte han, "stå op, eller du vil komme til at angre det." Da han havde sagt det, kom pludselig Peter i sin forrige skikkelse som den gamle soldat spadserende ind ad vinduet. "Hvordan er det, du bærer dig ad," sagde han, "tror du den døde kan blive levende, sådan som du har lagt knoglerne." - "Jeg gjorde det, så godt jeg kunne," svarede bror Lystig. "Denne gang skal jeg hjælpe dig, men det siger jeg dig, hvis du en eneste gang prøver på sådan noget er det ude med dig, og du må heller ikke tage imod den mindste smule af kongen." Han lagde nu knoglerne i orden, sagde tre gange: "I den hellige treenigheds navn befaler jeg dig, stå op," og prinsessen rejste sig, sund og smuk som før. Peter gik nu igen ud gennem vinduet, og bror Lystig var glad over, at det var spændt så godt af, men det ærgrede ham jo ikke så lidt, at han ikke måtte tage imod noget af kongen. "Gud ved, hvad han i grunden mener med det," tænkte han, "han giver med den ene hånd og tager med den anden. Det er der ingen mening i." Kongen tilbød nu bror Lystig alt, hvad han ville have, men han turde ikke tage imod noget. Han fik det dog ved listige hentydninger lavet sådan, at kongen lod hans ransel fylde med guld, og så drog han af sted. Da han kom ud af byen, stod Peter ved porten og sagde: "Du er slet ikke til at stole på. Har jeg ikke forbudt dig at tage imod noget, og så kommer du dog med ranslen fuld af guld." - "Jeg kan da ikke gøre for, at det bliver puttet derned," sagde bror Lystig. "Hvis du vover sådan noget en gang til, skal det komme dig dyrt til at stå." - "Det skal du såmænd ikke være bange for, nu har jeg jo penge nok, hvorfor skulle jeg så vaske ben." - "Det guld vil vist række langt," sagde Peter, "men for at du ikke oftere skal gå på gale veje, vil jeg give din ransel den kraft, at alt hvad du ønsker straks skal være i den. Og så farvel, nu ser du mig aldrig mere." - "Lykke på rejsen," sagde bror Lystig. "Det er godt, at den løjerlige fyr går sin vej," tænkte han, "jeg skal sandelig ikke følge efter." Det Peter havde sagt om hans ransel, tænkte han ikke mere på.
Bror Lystig drog videre med sit guld og strøede det omkring som forrige gang. Da han kun havde fire skilling tilbage, kom han forbi en kro: "Lad dem bare ryge," tænkte han og forlangte for tre skilling vin og for en skilling brød. Mens han sad og spiste og drak, mærkede han lugten af gåsesteg, og da han så sig om så han, at der stod to gæs i kakkelovnen. Pludselig kom han i tanker om, at hans kammerat havde sagt, at han kunne få alt, hvad han ønskede sig, i sin vadsæk. "Det må jeg prøve med gåsen," tænkte han. Han rejste sig, og da han var kommet ud af stuen, sagde han: "Jeg ønsker, at de to stegte gæs må ligge i min ransel." Derpå spændte han ranselen op, og gæssene lå ganske rigtigt deri. "Nu er jeg da en holden karl," tænkte han, gik ud på engen og tog stegen frem. Mens han sad og spiste, kom to håndværkssvende og så med sultne øjne på den gås, han endnu ikke var begyndt på. " Jeg har såmænd nok i den ene," tænkte han, kaldte på dem og sagde: "Vil I have den gås. Spis den på min sundhed." De takkede mange gange og gik hen på kroen og bestilte en halv flaske vin og noget brød, tog gåsen frem og begyndte at spise den. Værtinden så på dem og sagde til sin mand: "Se, de to der sidder og spiser gås. Se om det ikke er en af vores." Værten skyndte sig hen til kakkelovnen, og der var ikke spor af gæs. "I fordømte tyve," råbte han rasende, "tror I, I kan slippe så billig til gåsesteg. Hvis I ikke straks betaler, skal I få jeres rygstykker smurt." - "Vi er ikke tyve," sagde en af dem, "vi har fået gåsen af en gammel soldatude på engen." - "I skal ikke tage mig ved næsen," råbte værten, "soldaten har været her og er gået igen som en ærlig fyr. Ham har jeg passet på. I er tyvene og skal betale." Og da de ikke havde noget at betale med, tog han sin stok og jog dem ud ad døren.
Bror Lystig gik imidlertid videre og kom til et prægtigt slot, der lå lige i nærheden af en tarvelig kro. Han gik ind i kroen og spurgte, om han måtte blive der om natten, men værten sagde: "Jeg har ikke plads til flere. Her er helt fuldt af fornemme gæster." - "Det er da underligt," sagde bror Lystig, "hvorfor går de herind og ikke ind i slottet." - "Ja, det er nu ikke så lige en sag at være der en nat," svarede værten, "og de der har prøvet på det, er ikke sluppet levende fra det." - "Når andre har forsøgt det, vil jeg også," sagde bror Lystig. "Det skulle du dog hellere lade være med," sagde værten, "det kan koste dig dit liv." - "Åh, det går vel ikke ligestraks på livet løs," sagde bror Lystig, "giv mig kun nøglen og lad mig få en god mængde mad og drikke med." Værten gav ham det, og bror Lystig gik ind i slottet, spiste et rigtig solidt foder, og da han blev søvnig, lagde han sig på gulvet, for der var ingen seng. Han faldt hurtigt i søvn, men om natten blev han vækket af en stærk støj, og da han rejste sig op så han, at ni fæle djævle dansede i kreds om ham. "Dans I kun, så meget I vil," sagde bror Lystig, "men kom bare ikke mig for nær." Djævlene kom imidlertid nærmere og nærmere og til sidst var de lige ved at træde ham i ansigtet med deres væmmelige fødder. "Kan I så holde op," råbte bror Lystig, men de blev værre og værre. "Nu skal jeg nok holde styr på jer," råbte han, tog et stoleben og slog løs på dem. Men ni djævle mod en soldat er dog temmelig mange, og når han slog løs på den ene, rev de andre ham i håret. "Nu bliver I mig dog for slemme," råbte han, "men vent bare. Ned i min ransel alle ni." En, to, tre var de dernede, og han spændte den fast sammen og kastede den hen i en krog. Nu blev det ganske stille, og bror Lystig lagde sig ned igen og sov til den lyse morgen. Værten og den adelsmand, hvem slottet tilhørte, kom da for at se, hvordan det var gået ham, og da de så ham frisk og rask, spurgte ejeren forundret: "Har ånderne slet ikke gjort dig noget?" - "De ligger nok så pænt alle ni i min ransel," sagde bror Lystig, "og nu er der ikke flere, så I kan ganske roligt flytte ind i slottet igen." Adelsmanden takkede ham mange gange, gav ham rige gaver og bad ham blive der. Han skulle sørge for ham, så længe han levede. "Nu er jeg så vant til at strejfe rundt," sagde bror Lystig, "jeg vil hellere drage ud i den vide verden igen." Han begav sig så på vej og gik til han kom til en smedie. Der gik han ind, lagde ranselen med de ni djævle på ambolten og bad smeden og hans svende slå rigtig til. De slog af alle kræfter med deres store hammere så djævlene skreg ynkeligt. Da han derpå lukkede ranselen op, var de otte døde, men den niende havde siddet i en fold og var levende endnu. Den smuttede så ud og for ned i helvede.
Bror Lystig drog nu længe omkring i verden og oplevede mange ting, som vel nok var værd at fortælle, hvis man vidste det. Da han blev gammel begyndte han at tænke på sin død og gik hen til en gammel eneboer, der var vidt og bredt bekendt for sin fromhed. "Nu er jeg træt af at vandre omkring," sagde han, "nu vil jeg gerne prøve på at komme i himlen." - "Menneskene vandrer ad to veje," svarede eneboeren, "den ene er bred og bekvem og fører til helvede, den anden er smal og tornefuld og fører til himlen." - "Jeg måtte da være en god nar, hvis jeg gik ad den snævre vej," tænkte bror Lystig, begyndte at spadsere henad den brede vej og kom til sidst til en stor, sort port, og det var indgangen til helvede. Han bankede på og dørvogteren kiggede ud for at se, hvem det var. Men da han så bror Lystig blev han meget forskrækket, for han var netop den niende djævel, som havde siddet i ranslen og var sluppet derfra med et blåt øje. Han skød derfor i en fart slåen for, løb hen til overdjævelen og sagde: "Der står en fyr med en ransel udenfor, men lad ham for alt i verden ikke slippe ind. Han er i stand til at putte hele helvede i sin ransel. Jeg er blevet ordentlig pryglet igennem, da jeg var der." Bror Lystig fik derfor det svar, at han skulle gå sin vej, han kom ikke ind. "Når de ikke vil have mig her, må jeg se at slippe ind i himlen," tænkte han, "et sted må jeg da være." Han vendte så om og gik hen til himlen og bankede på porten. Peter sad der netop og bror Lystig kendte ham straks og tænkte: "Her finder jeg da en gammel ven igen, her vil det nok gå bedre." - "Jeg tror sandelig du vil i himlen," sagde Peter. "Lad mig dog komme ind," sagde bror Lystig, "et sted må jeg da være, og hvis de ville have haft mig i helvede, var jeg slet ikke kommet." - "Du kommer ikke ind," sagde Peter. "Nu vel, når du ikke vil have mig, så vil jeg slet ikke have noget af dig. Tag din ransel igen." - "Ja, kom så med den," sagde Peter, og bror Lystig rakte ham den gennem gitteret og han hængte den ved siden af sin stol. "Nu ønsker jeg mig selv ned i ranslen," sagde bror Lystig, og vips var han inde i himlen og Peter måtte lade ham blive der.