Chàng trai vui vẻ


Брат-Весельчак


Ngày xửa ngày xưa nổ ra một cuộc đại chiến. Khi chiến tranh kết thúc, rất nhiều binh sĩ được giải ngũ. Chàng trai vui vẻ cũng được giải ngũ, và khi đó gia tài chàng mang theo người chỉ là chiếc bánh mì và bốn đồng tiền hình chữ thập. Chàng đã lên đường trở về chỉ có như vậy.
Vào lúc đó thánh Petrus đóng giả thành một người ăn mày nghèo khó ngồi ở bên đường, khi chàng trai vui vẻ đi ngang qua, bèn chìa tay xin của bố thí. Chàng vui vẻ nói:
- Bác ăn mày thân mến, tôi biết cho bác gì đây? Tôi vốn là binh sĩ nhưng nay giải ngũ rồi, gia tài của tôi chỉ là một cái bánh mì và bốn đồng tiền hình chữ thập ra, chẳng còn có gì khác. Nếu những thứ đó hết thì tôi cũng phải ngồi ăn xin như bác thôi. Thế nhưng tôi rất vui lòng cho bác một ít.
Nói rồi, chàng chia chiếc bánh mì làm bốn phần, cho vị môn đồ của Giêsu đó một phần, còn cho thêm một đồng tiền hình chữ thập nữa. Thánh Petrus nói lời cảm tạ rồi bước đi. Tiếp sau đó ông lại biến thành một người ăn mày khác ngồi ở bên đường mà người lính đó phải đi qua. Khi chàng trai vui vẻ đi tới trước mặt, như lần trước, ông lại chìa tay xin của bố thí. Chàng trai vui vẻ lại nói những lời giống như lần trước, lại cho một phần tư chiếc bánh mì và một đồng tiền hình chữ thập. Thánh Petrus cám ơn xong lại bỏ đi, rồi biến thành một người ăn mày khác, lần thứ ba ngồi bên vệ đường để xin chàng trai vui vẻ. Chàng lại cho ông ta phần bánh mì thứ ba và một đồng tiền hình chữ thập. Thánh Petrus cảm tạ. Chàng lại đi tiếp tục. Chàng trai vui vẻ bây giờ chỉ còn lại một phần tư chiếc bánh mì và một đồng tiền hình chữ thập.
Chàng tới một quán ăn bên đường, ngồi ăn hết phần bánh mì còn lại và mua một đồng tiền bia để uống. Ăn uống xong chàng lại lên đường.
Vào lúc đó, thánh Petrus biến thành một người lính giải ngũ giống như chàng, đi ngược lại phía chàng và hỏi:
- Chào anh bạn, anh bạn có thể cho tôi một miếng bánh mì và một đồng để uống bia?
Chàng trai vui vẻ trả lời:
- Giờ thì lấy đâu ra những thứ đó! Tôi là lính đã giải ngũ, chẳng có gì ngoài chiếc bánh mì đen và bốn đồng tiền hình chữ thập. Nhưng gặp ba người ăn mày ở trên đường, tôi đã cho mỗi người một phần tư bánh mì và một đồng tiền hình chữ thập. Bánh mì còn lại tôi đã ăn ở trong quán ăn dọc đường, đồng tiền chữ thập cuối cùng tôi đã mua bia uống rồi. Giờ thì túi rỗng. Nếu anh cũng vậy thì ta cùng nhau đi ăn xin.
Thánh Petrus nói:
- Không, việc ăn xin đó chẳng phải làm đâu! Tôi biết một chút về nghề y, nên cần bao nhiêu tôi cũng có thể kiếm được.
- Tốt thôi! - Chàng trai vui vẻ nói - Tôi chẳng biết gì về nghề y cả, nên tôi chỉ còn cách đi ăn xin một mình thôi.
Thánh Petrus bảo:
- Thì cứ đi cùng. Nếu tôi kiếm được tiền thì chia cho anh một nửa.
Chàng trai vui vẻ nói:
- Thế thì còn gì bằng!
Và cả hai lên đường. Họ tới trước một căn nhà nông dân thì nghe có tiếng than khóc rất to ở trong nhà, bèn bước vào thì thấy một người đàn ông ốm nặng nằm thoi thóp thở, người đàn bà đang than khóc. Thánh Petrus nói:
- Đừng khóc, đừng kêu la nữa. Tôi sẽ giúp chồng bà khỏe trở lại!
Nói xong, thánh Petrus lấy từ túi áo ra một loại dầu cao xoa cho người đàn ông, chỉ trong nháy mắt người bệnh bình phục. Ông ta đứng lên và hoàn toàn khỏe. Người đàn ông và bà vợ rất mừng rỡ, nói:
- Chúng tôi không biết cảm tạ ông thế nào, đưa cho ông những gì?
Nhưng thánh Petrus chẳng muốn lấy gì. Hai người nông dân càng khẩn cầu, thì ông lại càng từ chối. Chàng trai vui vẻ hích vai thánh Petrus một cái và nói:
- Thì nhận một chút thôi. Cũng có lúc chúng ta cũng cần dùng mà.
Cuối cùng thì người đàn bà dắt ra một con cừu, nói với thánh Petrus rằng ông ta nhất định phải nhận cho. Nhưng thánh Petrus vẫn không chịu nhận. Khi đó, chàng trai vui vẻ đẩy ông bạn đường sang một bên và nói:
- Cứ nhận đi, đồ ngốc. Chúng ta cũng cần tới nó!
Thánh Petrus đành phải đồng ý và bảo:
- Được rồi, tôi nhận con cừu này. Thế nhưng tôi không vác nó đâu. Anh muốn có thì anh vác nó đi nhé!
Chàng trai vui vẻ nói:
- Chẳng có vấn đề gì! Tôi sẵn sàng vác nó trên vai!
Nói rồi chàng trai vác con cừu lên vai. Họ lại lên đường, và tới một khu rừng. Bỗng chàng trai vui vẻ cảm thấy con cừu nặng hẳn lên, lại thêm bụng đói, liền nói với thánh Petrus:
- Ở chỗ này thuận tiện đấy! Chúng ta có thể giết cừu làm bữa chén?
- Tôi thấy cũng được đấy. Có điều tôi không thích chuyện bếp núc. Anh muốn nấu ăn thì cầm lấy chiếc nồi này. Trong thời gian đó tôi muốn đi dạo quanh một chút, đợi anh nấu chín sẽ quay lại. Thế nhưng trước khi tôi quay lại, anh chớ có ăn trước đấy, tôi biết đúng lúc mà quay về - Thánh Petrus nói.
- Anh cứ đi đi, tôi đã biết cách nấu ăn mà, nấu ngon là đằng khác.
Thế là thánh Petrus ra đi, chàng trai vui vẻ giết cừu, nhóm lửa, cho thịt cừu vào nồi, rồi nấu.
Nhưng thịt cừu nấu xong mà vị môn đồ của chúa Giêsu vẫn chẳng quay lại. Chàng trai vui vẻ mang thịt cừu trong nồi ra, thái nhỏ. Bỗng chàng nhìn thấy quả tim cừu.
- Nghe đồn cái món này ngon nhất! - chàng trai nói và thử nếm một chút, nhưng rồi cứ nếm mãi cho tới khi ăn hết cả quả tim cừu.
Cuối cùng thì thánh Petrus cũng quay trở lại và bảo:
- Anh có thể ăn cả con cừu, tôi chỉ muốn ăn tim cừu thôi. Anh lấy nó cho tôi nhé!
Chàng trai vui vẻ bèn cầm dao và dĩa, lật đi lật lại thịt cừu, ra dáng như tìm kỹ lưỡng, nhưng làm sao có thể tìm thấy tim cừu! Cuối cùng chàng đành phải nói:
- Không có tim cừu!
- Không có thì đi đâu rồi? - Môn đồ của Giêsu hỏi.
- Điều đó tôi không biết. Anh xem, chúng ta đúng là hai đứa ngốc, ra sức tìm tim cừu mà chẳng tìm ra. Kỳ thực con cừu này không có tim!
- Ồ! Thật kỳ lạ! Mọi động vật đều có tim, vì sao con cừu này lại không có?
- Không có, đúng là không có, người anh em ạ! Cừu không có tim. Anh chỉ cần nghĩ kỹ thì sẽ nghĩ ra rằng: cừu đúng là không có tim mà!
Thánh Petrus nói:
- Được rồi! Việc này xem như xong! Đã không có tim thì thịt cừu tôi chẳng ăn tí nào đâu, anh ăn một mình hết đi nhé!
- Tôi chẳng ăn hết đâu! Số còn lại sẽ cho vào bao mang theo! - Chàng trai vui vẻ nói xong và ăn hết nửa con cừu, số còn lại thì cho vào trong chiếc bao.
Họ tiếp tục lên đường. Thánh Petrus lúc đó dùng phép thuật tạo ra một con sông lớn chắn ngang đường đi buộc họ phải vượt qua con sông đó. Thánh Petrus nói:
- Anh sang trước nhé!
- Không, anh sang trước! - Chàng trai vui vẻ trả lời, trong bụng nghĩ rằng: "Nếu nước sông rất sâu thì mình chẳng qua sông nữa!"
Khi đó thánh Petrus đã lội qua sông, nước sông chỉ ngập đến đầu gối ông ta. Thế là chàng trai vui vẻ cũng muốn lội qua, nhưng nước sông bỗng dềnh lên ngập cho tới tận cổ của chàng. Thế là chàng trai kêu lên:
- Người anh em, mau cứu tôi với!
Thánh Petrus nói:
- Anh có thừa nhận là anh đã ăn tim con cừu đó hay không?
- Không! - Chàng trai vui vẻ đáp: "Tôi chưa từng ăn tim cừu!
Khi đó nước lại tiếp tục dềnh lên, ngập tới cằm của chàng trai vui vẻ, khiến chàng ta kêu toáng lên:
- Mau cứu tôi với, người anh em!
Thánh Petrus hỏi lại một lần nữa:
- Anh có thừa nhận là đã ăn tim con cừu đó hay không?
- Không, tôi chưa từng ăn tim cừu! - Chàng trai trả lời.
Nhưng thánh Petrus không muốn dìm chàng trai chết đuối, nên đã cho nước sông rút xuống để chàng trai qua được sông.
Họ lại tiếp tục lên đường và tới một vương quốc, ở đó họ hay tin, công chúa đang thập tử nhất sinh. Chàng trai vui tính nói với thánh Petrus:
- Ô chà, người anh em! Mẻ lưới này khá đấy. Làm cho công chúa khỏe lại thì chúng ta suốt đời no đủ.
Thấy thánh Petrus vẫn thản nhiên, chàng trai vui tính thúc giục:
- Nào, rảo cẳng lên một chút, người bạn hảo tâm. Chúng ta phải tới đó đúng lúc mới được.
Thánh Petrus vẫn đủng đỉnh, mặc cho chàng trai vui tính luôn hối thúc. Rồi họ hay tin, công chúa đã chết trên giường bệnh. Chàng trai vui vẻ nói:
- Đủng đỉnh như anh làm hỏng việc rồi.
Thánh Petrus đáp:
- Cứ bình tĩnh nào, tôi không những chữa cho con bệnh khỏe mạnh lại, mà còn có thể làm người chết sống lại.
- Nếu làm được việc ấy thì anh làm thử xem sao. Làm được thì nửa giang sơn này sẽ là của chúng ta.
Cả hai đi vào hoàng cung. Bầu không khí đau thương tràn ngập nơi đây. Thánh Petrus tâu với nhà vua, rằng ông có thể làm cho công chúa sống lại. Thánh Petrus được dẫn tới phòng của công chúa. Ông bảo:
- Hãy mang cho tôi một nồi nước!
Khi nồi nước được mang tới, ông bảo mọi người lui ra ngoài, chỉ chàng trai vui tính được ở lại. Rồi ông cắt rời chân tay khỏi thân và cho tất cả vào trong nồi. Ông nhóm lửa đun, đun cho tới mức thịt rã khỏi xương. Rồi ông nhặt xương ra, xếp chúng đúng theo thứ tự cơ thể con người. Xếp xong, ông bước lên phía trước một bước, nói ba lần:
- Nhân danh tất cả các thánh thần, người chết hãy đứng dậy!
Khi lời nói lần thứ ba vừa dứt thì công chúa trẻ đẹp đứng bật dậy. Nhà vua hết sức vui mừng nói với thánh Petrus:
- Nếu khanh muốn, trẫm sẵn sàng chia cho khanh nửa giang sơn này!
Nhưng thánh Petrus lại nói:
- Thần không đòi hỏi gì cả.
Anh chàng vui tính nghĩ: "Người đâu sao lại ngốc đến thế" và hích vai đẩy thánh Petrus sang bên và nói:
- Sao lại có người ngu đến thế. Anh không cần, nhưng tôi thì cần!
Thánh Petrus chẳng nói năng gì cả. Nhà vua thấy người bạn cùng đi lại muốn được một cái gì đó, bèn bảo viên tổng quản cho người đó một bao vàng đầy ắp.
Cả hai lại tiếp tục lên đường. Khi tới một khu rừng, thánh Petrus nói với chàng trai vui tính:
- Giờ chúng ta chia nhau vàng đi!
Chàng trai vui tính đáp:
- Đúng đấy, chúng ta chia vàng đi!
Thánh Petrus đem vàng ra chia làm ba phần. Chàng trai vui vẻ nghĩ: "Đầu ông này có vấn đề rồi. Chia tất cả ra làm ba phần trong khi chỉ có hai người!
Thánh Petrus nói:
- Tôi đã kiểm tra rất cẩn thận, một phần dành cho tôi, một phần dành cho anh, một phần dành cho người đã ăn tim cừu!
- Ồ, tôi là người đã ăn tim cừu. - Chàng trai vui tính nói và vơ luôn phần vàng đó.
Thánh Petrus nói:
- Sao lại có chuyện ấy nhỉ? Cừu không có tim mà.
- Ái chà chà, người anh em ơi, anh nghĩ đi đâu thế? Cừu cũng có tim như bất kỳ mọi con động vật khác. Tại sao chỉ riêng con cừu này là không có tim?
- Được, cứ coi như là thế đi. Anh cứ giữ lấy phần vàng đó. Thế nhưng từ giờ thì tôi sẽ đi đường tôi mà không đi cùng với anh nữa - Thánh Petrus nói.
- Anh bạn hảo tâm, tùy ý anh thôi. Chúc anh thượng lộ bình a - Anh chàng vui tính đáp.
Thánh Petrus rẽ vào đường khác và tiếp tục cuộc hành trình của mình. Anh chàng vui tính nghĩ:
- Anh ta đi đường khác lại là tốt. Đúng là một ông thánh kỳ lạ, tiền có, nhưng không biết cách tiêu tiền, tiêu xài phung phí, để rồi lại tay không.
Anh chàng vui tính lên đường, anh tới vương quốc kia thì nghe rằng công chúa vừa mới qua đời. Chàng nghĩ: "Chà, đó cũng là dịp may! Ta sẽ làm cho nàng sống lại. Thế nào ta cũng được thưởng hậu hĩnh!." Thế là chàng tới hoàng cung tuyên bố là mình có thể làm người chết sống lại. Vua nghe tin, có một người lính giải ngũ có thể làm người chết sống lại. Vua đoán, người đó có thể là anh chàng vui tính nên bán tín bán nghi. Nhà vua bèn hỏi quần thần. Các quan tâu rằng, nhà vua cứ thử xem, vì đằng nào thì công chúa cũng đã chết.
Chàng trai vui tính sai mang cho mình một nồi nước. Chàng bảo mọi người lui ra ngoài. Chàng cắt chân tay khỏi thân, rồi cho tất cả vào nồi. Chàng nhóm lửa nấu như khi trước chàng thấy thánh Petrus làm. Chàng nấu cho đến khi thịt rã khỏi xương thì vớt xương ra và xếp chúng lại. Nhưng vì chàng không biết cách xếp, nên xương nằm không theo đúng thứ tự. Khi chàng bước lên một bước và nói:
- Nhân danh tất cả các thánh thần, người chết hãy đứng dậy!
Chàng nói thế ba lần liền, nhưng đống xương xếp hình không động đậy. Chàng trai vui vẻ thốt lên:
- Cô gái kia, cô gái kia hãy đứng dậy mau không thì có chuyện bây giờ!
Chàng vừa dứt lời thì thánh Petrus dưới dạng một người lính đã giải ngũ xuất hiện và nói:
- Quân vô thần, mi làm gì thế này, xương xếp lẫn chỗ thì làm sao người chết có thể đứng dậy được!
Chàng trai vui vẻ đáp:
- Ôi, anh bạn hảo tâm, tôi đã trổ hết tài mình rồi đấy!
- Lần này thì tôi giúp để anh được thoát nạn, nhưng tôi báo cho anh biết, nếu anh còn tiếp tục làm việc này thì sẽ gặp bất hạnh đấy. Anh không được đòi vua thưởng hay nhận tiền công.
Nói xong, thánh Petrus xếp xương theo đúng thứ tự, rồi nói ba lần câu phù chú:
- Nhân danh tất cả các thánh thần, người chết hãy đứng dậy!
Lời nói vừa dứt, công chúa đứng lên, dáng khỏe mạnh, xinh đẹp. Thánh Petrus biến mất qua đường cửa sổ. Chàng trai vui tính rất mừng, vì ông việc kết thúc tốt đẹp, nhưng vì đã hứa không nhận thưởng nên chàng bực tức, nghĩ bụng: "Mình cũng không sao hiểu nổi con người này, tay này thì đưa, nhưng lại lấy nó đi bằng tay khác!"
Nhà vua hỏi chàng trai vui vẻ muốn thưởng gì, nhưng vì không được nói muốn lấy gì, nên chàng ra hiệu ám chỉ, nhà vua sai người mang tới cho chàng đầy túi vàng. Chàng nhận và vác túi vàng lên vai đi. Vừa mới ra tới cổng hoàng cung chàng đã bị thánh Petrus chặn hỏi:
- Sao lại như thế nhỉ? Tôi cấm anh không được nhận bất cứ một thứ gì, sao anh lại nhận đầy một túi vàng?
Chàng trai vui vẻ đáp:
- Họ bắt phải lấy thì tôi biết làm thế nào!
- Tôi nói cho anh biết, nếu việc này tái diễn thì anh sẽ khốn đốn đấy!
- Ồ, người anh em ơi, đừng lo! Giờ có vàng đầy túi thì cần gì phải làm cái việc rửa xương kia.
Thánh Petrus bảo:
- Vàng rồi cũng sẽ hết. Để anh không tái phạm, tôi cho anh một phép lạ, anh ước gì thì cái đó có ngay ở trong túi. Chúc anh hạnh phúc, anh sẽ không gặp lại tôi đâu.
- Cầu chúa phù hộ cho anh! - Chàng trai vui vẻ nói, trong bụng thầm nghĩ: "Đúng là anh chàng kỳ quặc. Anh đi thì tôi mừng, chứ đi theo anh làm gì."
Chàng trai vui tính vác túi vàng đi đây đó mà chẳng nghĩ tới phép lạ của chiếc túi. Chàng tiêu pha vung vẩy như lần thứ nhất. Khi chỉ còn bốn xu (dập hình chữ thập) thì cũng là lúc chàng bước vào quán ăn. Chàng nghĩ: "Thì tiêu hết quách đi!" Chàng tiêu hết một xu cho ăn, hết ba xu cho rượu.
Trong lúc chàng vui tính đang ăn uống thì chàng ngửi thấy mùi ngỗng quay. Nhìn quanh, chàng thấy chủ quán đang quay hai con ngỗng. Chàng chợt nhớ tới lời dặn của người bạn đường: cầu mong thứ gì thì thứ đó có ở trong túi. Chàng nghĩ: "Ái chà, mình muốn có hai con ngỗng quay kia." Rồi chàng ra ngoài, đứng trước cửa quán nói:
- Tôi cầu mong, hai con ngỗng quay kia bay vào trong túi.
Chàng vừa nói xong, mở chiếc túi ra thì thấy hai con ngỗng quay đã ở trong túi. Chàng nói:
- Trời, phải thế chứ. Đúng là mong được, ước thấy!
Chàng ra ngoài đồng cỏ, lấy ngỗng quay ra ăn. Trong lúc chàng đang ăn ngon miệng thì có hai người thợ bước tới, họ nhìn chằm chằm vào con ngỗng quay mà chàng chưa động đến. Chàng trai vui vẻ nghĩ: "Mình ăn một con đã no nê rồi." Chàng gọi hai người kia và nói:
- Lấy con ngỗng quay này mà ăn. Ăn thì nhớ chúc sức khỏe tôi nhé!
Bọn họ cám ơn chàng, mang ngỗng quay vào trong quán, gọi rượu và bánh mì, rồi bày ngỗng ra bàn để ăn. Vợ chủ quán thấy ngỗng quay thì nói với chồng:
- Hai người này có ngỗng quay, ông thử xem ngỗng quay trong lò của nhà mình còn không!
Chồng vào xem lò quay ngỗng, thấy chỉ có lò không, bèn hô hoán:
- Quân ăn trộm, chúng bay định ăn không ngỗng quay à, trả tiền ngay mới được ăn, không thì đánh cho một trận nhừ tử bây giờ!
Hai người khách đáp:
- Chúng tôi không phải dân ăn trộm. Con ngỗng quay này do người lính ngồi trên đồng cỏ đưa tặng chúng tôi.
- Đừng có hòng qua mặt ta nhé! Người lính có tới đây, nhưng đó là con người thật thà. Chính mắt ta thấy anh ta tay không ra khỏi quán. Bọn mày chính là quân ăn trộm. Trả tiền mau!
Bọn họ không có tiền trả, chủ quán cầm gậy phang đuổi họ ra khỏi quán.
Chàng trai vui vẻ vẫn tiếp tục cuộc hành trình, chàng tới một vùng có tòa lâu đài to đẹp, gần đó lại là một quán trọ. Chàng bước vào quán trọ tính thuê giường ngủ qua đêm, chủ quán trọ từ chối và nói:
- Ở đây hết chỗ rồi, toàn khách sang trọng thuê.
Chàng trai vui vẻ nói:
- Kỳ lạ thật, khách sang trọng mà lại không ở trong lâu đài to đẹp!
Chủ quán đáp:
- Nó có lý do của nó. Ai vào đó ngủ đêm, khó mà sống tới sáng hôm sau.
Chàng trai vui vẻ nói:
- Nếu đã có người dám thử thì tại sao tôi không dám thử nhỉ!
Chủ nhà trọ nói:
- Cẩn thận nào, mất mạng như chơi đấy!
- Làm sao mà chết ngay được! Cứ đưa chìa khóa và đồ ăn, đồ uống cho tôi đi.
Thế là chủ quán đưa đồ ăn, đồ uống cho chàng. Chàng trai vui tính bước vào lâu đài, lấy đồ ra ăn uống ngon lành. Ăn xong chàng thấy buồn ngủ, vì không có giường nên chàng nằm ngay trên nền nhà, rồi thiu thiu ngủ. Đêm khuya chàng bị thức giấc bởi tiếng huyên náo. Chàng trấn tĩnh nhìn quanh thì thấy có chín con quỷ đang ở trong phòng. Chúng cầm tay nhau nhảy múa thành vòng tròn quây lấy chàng. Chàng vui vẻ nói:
- Bọn mày muốn nhảy bao lâu cũng được, nhưng không được xán gần lại ta!
Bọn quỷ cứ thắt dần vòng tròn, cái chân bẩn thỉu của chúng tiến sát người chàng. Chàng trai vui vẻ quát lớn:
- Để cho ta yên nào, quân ma quỷ!
Nhưng chúng càng náo loạn làm cho chàng nổi cáu và quát:
- Hừm, tao sẽ làm cho chúng mày phải im lặng!
Chàng cầm ghế phang túi bụi vào bọn chúng, nhưng làm sao một người có thể chống lại chín. Chàng đánh phía trước, thì những con phía sau xông vào túm tóc chàng mà giật.
- Đồ quỷ sứ chúng bay. Tao hết sức khó chịu với chúng mày! Đợi mà xem! Cả chín con quỷ vào ngay trong túi!
Chàng thét lên, khi lời chàng vừa dứt thì cả chín con quỷ đã ở trong túi, chàng thắt nút lại và ném chiếc túi vào một góc. Giờ gian phòng trở lại yên tĩnh. Chàng trai vui vẻ nằm ngủ một giấc cho tới khi trời sáng rõ. Lúc đó, chủ nhà trọ và nhà quý tộc chủ lâu đài sang xem có chuyện gì xảy ra không. Nhìn thấy chàng trai vui vẻ tươi cười họ hết sức ngạc nhiên và hỏi:
- Bọn quỷ không làm gì được anh à?
- Sao lại không làm được gì? Giờ thì cả chín con quỷ đang ở trong túi của tôi. Từ nay các vị có thể yên tâm sống trong lâu đài, không còn có con quỷ nào tới đây náo loạn nữa.
Vị quý tộc cám ơn và thưởng tặng chàng nhiều thứ, đồng thời mời chàng ở lại lâu đài, hứa sẽ chu cấp cho chàng đầy đủ. Chàng trai vui vẻ đáp:
- Không, tôi quen sống nay đây mai đó rồi, tôi chỉ muốn lên đường.
Chàng trai vui vẻ lên đường. Chàng tới một lò rèn, đặt chiếc túi lên cái đe thợ rèn, nhờ bác thợ rèn cùng phó nhỏ nện búa vào cái túi. Họ ra sức nện búa, bọn quỷ trong tú la ó om xòm. Lát sau chàng mở túi xem thấy tám con quỷ đã chết. Con thứ chín còn sống, nó lách chui ra khỏi túi, chạy về địa ngục.
Ngay sau đó chàng trai vui tính lại lên đường đi chu du thiên hạ. Ai mà biết được chàng đi những đâu thì tha hồ mà kể.
Thời gian trôi mau, giờ đây chàng đã là một ông già, tới gặp một vị ẩn sĩ nổi tiếng vì lòng thương người và nói:
- Tôi đã đi khắp bốn phương. Giờ chỉ còn mong được lên thiên đường.
Vị ẩn sĩ đáp:
- Trên đời chỉ có hai con đường, đường xuống địa ngục thì rộng và dễ đi, đường lên thiên đường vừa hẹp, vừa lại khó đi.
Chàng trai vui vẻ nghĩ bụng: "Chỉ có thằng ngốc mới đi con đường vừa hẹp, vừa khó đi." Chàng lên đường, chọn con đường rộng, dễ đi mà đi. Cuối cùng chàng tới trước cánh cổng lớn đen xì - cánh cổng địa ngục. Chàng trai vui vẻ gõ cổng. Người canh cổng ngó ra xem ai. Hắn giật mình hoảng sợ khi nhìn thấy chàng trai vui vẻ, vì hắn là con quỷ thứ chín trốn được ra khỏi chiếc túi của chàng. Hắn vội cài then cổng cho chặt, rồi chạy lại chỗ con quỷ đầu đàn và nói:
- Ở bên ngoài có một tên vác túi muốn vào. Đừng cho nó vào nhé. Nó có thể hóa phép nhét cả địa ngục vào trong cái túi. Nó đã từng giam tôi ở trong cái túi đó và đập cho tôi một trận đến nhũn người ra.
Chàng trai vui tính được thông báo, phải đi khỏi nơi này. Chàng nghĩ bụng: "Nếu họ không thích cho mình vào thì mình lên thiên đường tìm một chỗ trú chân vậy." Chàng quay lại và tiếp tục lên đường. Chàng đi thẳng tới cổng trời và gõ cổng. Đúng lúc thánh Petrus ngồi canh cổng. Chàng trai vui tính nhận ra ngay và nghĩ: "Mình gặp đúng người bạn cũ. Chắc mọi việc sẽ tốt đẹp thôi!."
Nhưng thánh Petrus nói:
- Ta thật không sao tin được là anh lại tới thiên đường!
- Người anh em, cho tôi vào nhé! Tôi mong có một nơi để đi về. Nếu như họ tiếp nhận cho tôi vào địa ngục thì tôi đã chẳng phải lên đây!
- Không! Anh không được vào! - Thánh Petrus nói.
- Được thôi! Nếu anh không muốn cho tôi vào thì anh nhận lại chiếc túi của anh vậy! Từ nay về sau, tôi chẳng cần gì ở nơi anh nữa! - chàng trai vui vẻ nói.
Thánh Petrus bảo:
- Thế thì đưa nó lại đây!
Chàng trai vui vẻ đưa trả chiếc túi qua hàng rào của thiên đường. Thánh Petrus nhận lấy, rồi đem treo chiếc túi ở bên ghế ngồi của mình. Khi đó, chàng trai vui vẻ mới nói:
- Bây giờ tôi mong, chính tôi ở trong chiếc túi đấy!
Sau tiếng "ào ào" là chàng đã vào được trong thiên đường và chui vào trong túi. Thánh Petrus cũng chỉ còn cách là để cho chàng ở lại bên trong đó mà thôi!


Dịch: Lương Văn Hồng, © Lương Văn Hồng
Была когда-то большая война, и когда она окончилась, много солдат вышло в отставку. Получил и Брат-Весельчак отставку и в придачу всего лишь солдатский хлебец и четыре крейцера деньгами; с тем и пустился он в путь-дорогу. А сидел у дороги святой Петр в образе нищего. Когда Брат-Весельчак проходил мимо, стал нищий милостыню у него просить; А тот отвечает:
- Милый мой нищий, что же мне тебе подать? Был я в солдатах и вот получил отставку, и есть у меня всего-навсего один лишь хлебец солдатский да четыре крейцера денег; как истрачу их, придется мне тоже, как и тебе, милостыню просить. Но все ж таки я тебе что-нибудь подам.
Разделил он хлебец на четыре части, дал апостолу часть да еще крейцер деньгами. Поблагодарил его святой Петр и пошел себе дальше, уселся опять в образе другого нищего у дороги, где проходил солдат. Подошел солдат, а тот попросил опять, как и в прошлый раз, подать ему милостыню. Ответил Брат-Весельчак то же самое, что и тогда, и дал ему снова четверть хлебца да крейцер деньгами. Поблагодарил святой Петр, пошел себе дальше и сел в третий раз у дороги, в образе другого нищего, и попросил у Брата-Весельчака милостыню. Подал ему Брат-Весельчак и в третий раз четверть хлебца да третий свой крейцер. Поблагодарил его святой Петр, и Брат-Весельчак пошел дальше, и осталось у него всего лишь хлеба краюшка да один крейцер деньгами. Вот и зашел он с этим в харчевню; хлебец поел, а на крейцер велел подать себе пива. Закусил он и двинулся дальше, а ему навстречу опять святой Петр в образе отставного солдата и говорит ему:
- Здорово, товарищ! Не дашь ли мне хлеба кусок да крейцер, чтоб выпить маленько?
- Где ж мне взять их? - ответил Брат-Весельчак. - Получил я отставку да хлебец солдатский и четыре крейцера деньгами. Повстречал по дороге трех нищих, дал каждому из них по четверти хлебца да деньгами по крейцеру. Последнюю краюшку я в харчевне съел, а на последний крейцер немного выпил. Теперь у меня в кармане пусто, и если у тебя тоже нет ничего, то, пожалуй, пойдем вместе с тобой милостыню просить.
- Нет, - ответил святой Петр, - вот этого как раз и не требуется: я малость знаком с лекарским ремеслом и заработать себе смогу, сколько мне будет надо.
- Да, - сказал Брат-Весельчак, - но в этом деле я ничего не смыслю, и выходит, что придется мне милостыню идти просить одному.
- Ну, а ты ступай со мной вместе, - сказал святой Петр, - если я что заработаю, дам тебе половину.
- Это дело для меня подходящее, - сказал Брат-Весельчак.
И вот пошли они вместе. Подошли они к одному крестьянскому дому и слышат там плач и крик; вошли они в дом, а лежит там человек тяжело больной и уже при смерти; его жена причитает и плачет навзрыд.
- Брось плакать и причитать, - сказал святой Петр, - я готов твоего мужа вылечить. - Достал он из кармана мазь и вмиг исцелил больного; тот мог встать и стал совершенно здоров. Вот муж с женой и говорят на радостях:
- Как же нам вас отблагодарить? Что дать вам за это?
Но святой Петр принять ничего не пожелал; и чем больше его упрашивали, тем он больше отказывался. Тут Брат-Весельчак толкнул святого Петра и говорит:
- Да возьми ты что-нибудь, ведь нам пригодится.
Принесла, наконец, крестьянка ягненка и говорит святому Петру, чтобы он его взял, а тот брать не хочет. Тут Брат-Весельчак отвел его в сторону и говорит:
- Да бери ты, глупый черт, нам-то ведь пригодится.
И сказал, наконец, святой Петр:
- Ну, ягненка я возьму, но нести его не буду; если хочешь, то неси его сам.
- Да дело это нетрудное, - сказал Брат-Весельчак, - уж я его понесу, - и он взвалил ягненка себе на плечи. Пошли они дальше и пришли в лес. Стало Брату-Весельчаку трудно нести ягненка; был он голоден и говорит святому Петру:
- Погляди, вот и местечко красивое, здесь мы могли бы ягненка сварить и съесть.
- Что ж, я согласен, - отвечал святой Петр, - но стряпать я не умею. Если хочешь варить, то вот тебе и котел, а я, пока мясо сварится, пойду погуляю. Но ты не смей начинать есть, пока я не вернусь, а приду я вовремя.
- Ну, ступай себе, - сказал Брат-Весельчак, - я уж управлюсь, сварить его сумею.
И святой Петр ушел, а Брат-Весельчак зарезал ягненка, развел костер, бросил мясо в котел и начал варить. Был ягненок уже готов, а апостола все нету. Вытащил тогда Брат-Весельчак ягненка из котла, разрезал его и нашел сердце.
- Это, пожалуй, самое вкусное, - сказал он, попробовал его и, наконец, съел его все. Воротился святой Петр и говорит:
- Можешь съесть всего ягненка, а я съем одно только сердце, дай мне его.
Взял Брат-Весельчак нож и вилку и сделал вид, будто усердно ищет его в мясе, но никак не может найти. Наконец, не долго думая, говорит:
- Тут его нету.
- Ну, а куда ж оно могло деться? - спрашивает апостол.
- Это уж я не знаю, - ответил Брат-Весельчак. - Но ты только подумай, какие мы с тобой оба дураки: ищем у ягненка сердце, а никому из нас и в голову не придет, что у ягненка-то ведь сердца не бывает!
- Э, - сказал святой Петр, - да это ты что-то выдумываешь! Ведь у каждого животного имеется сердце, почему ж не быть ему и у ягненка.
- Нет, братец, так оно и есть, нет у ягненка сердца. Ты только как следует поразмысли и сообрази, что и вправду нет у него сердца.
- Ну, ладно, - сказал святой Петр, - раз нет сердца, так мне тогда ничего и не надо, можешь всего ягненка сам съесть.
- Ну, чего сейчас не доем, то возьму с собой в ранец, - сказал Брат-Весельчак. Съел половину ягненка, а остальное себе в ранец засунул.
Пошли они дальше, и сделал святой Петр так, что через дорогу, по которой им надо было проходить, вдруг стала протекать большая река. Святой Петр и говорит:
- Ступай ты вперед.
- Нет, - говорит Брат-Весельчак, - иди ты вперед, - а сам подумал: "Если он не перейдет реку, я тут останусь".
Вошел святой Петр в воду, и была она ему всего лишь по колено. Собрался и Брат-Весельчак переходить вброд, и вдруг река стала глубже, и вода оказалась ему по самую шею. Тут он как закричит:
- Братец, помоги мне!
А святой Петр и говорит:
- А ты готов сознаться, что ты съел сердце ягненка?
- Нет, - ответил он, - я его не ел.
И стала тогда вода прибывать и дошла ему до самого рта.
- Помоги мне, братец! - завопил солдат.
А святой Петр и говорит ему опять:
- А ты готов сознаться, что ты съел сердце ягненка?
- Нет, - ответил он, - я его не ел.
Но святому Петру все-таки не хотелось, чтоб солдат утонул, и повелел он воде схлынуть и помог ему перейти.
Пошли они дальше и пришли в одно королевство; услыхали они там, что королевна лежит больная, при смерти.
- Хо-хо, братец, - говорит солдат святому Петру, - вот уж будет нам добыча и на веки вечные хватит.
И казалось ему, что святой Петр идет недостаточно быстро.
- Ты, братец любезный, шагай повеселей, ноги подымай повыше, - говорит он ему, - чтобы явиться нам как раз вовремя.
А святой Петр шел все медленней, как его Брат-Весельчак ни гнал, ни подталкивал; и услыхали они, наконец, что королевна уже умерла.
- Вот тебе и на, - говорит Брат-Весельчак, - а все это из-за того, что ты шел будто спросонок.
- Да ты успокойся, - ответил святой Петр, - я в силах не только больных врачевать, но могу и мертвых воскрешать.
- Ну, ежели так, - сказал Брат-Весельчак, - это мне нравится, тут по крайней мере заработаем мы с тобой целых полкоролевства.
Пришли они в королевский замок, и были там все в великой печали; но святой Петр объявил королю, что он готов его дочь воскресить. Привели его к ней, а он и говорит:
- Принесите мне котел с водой.
Принесли ему котел с водой, и велел он, чтоб все вышли, и позволил остаться с ним одному лишь Брату-Весельчаку.
Потом разрезал он покойницу на куски, бросил их в воду, развел огонь под котлом и начал варить. Отвалилось от костей мясо, вынул он белые кости, положил их на стол в надлежащем порядке. Только он это сделал, вышел и трижды промолвил: "Во имя пресвятой троицы, мертвая, встань". Только он это сказал в третий раз, поднялась королевна - живая, здоровая и красивая. И был король по этому случаю в великой радости и сказал святому Петру:
- Требуй от меня награду, и если то будет даже половина моего королевства, я ее тебе отдам.
Но ответил святой Петр:
- Я за это ничего не хочу.
"Ох, ты дурень какой!" - подумал Брат-Весельчак, отвел своего товарища в сторону и говорит:
- Не будь ты, однако, таким дураком; если ты ничего не хочешь, то ведь мне что-нибудь да надо.
Но святой Петр не пожелал себе ничего; а король заметил, что другому из них хочется что-нибудь получить, и он велел своему казначею насыпать ему полный ранец золота.
Пошли они дальше. Пришли в лес, вот святой Петр и говорит Брату-Весельчаку:
- Давай теперь золото делить.
- Ладно, - ответил солдат, - давай делиться.
И поделил святой Петр золото, но разделил его на три части.
Подумал Брат-Весельчак: "Что это у него заскок в голове случился? Делит все на три части, а нас-то ведь двое".
Но святой Петр сказал:
- Вот я разделил правильно: одна часть мне, другая тебе, а третья часть тому, кто съел сердце ягненка!
- О, да ведь это же я его съел! - ответил Брат-Весельчак и быстро сгреб золото себе в карман, - уж в этом ты мне поверь.
- Как же так, - сказал святой Петр, - ведь у ягненка-то сердца нету?
- Э, да ты что, братец, как это ты соображаешь! Ведь у ягненка, как и у всякого другого животного, сердце имеется; отчего бы ему одному не иметь его?
- Ну, ладно уж, - сказал святой Петр, - получай золото ты один, но больше оставаться с тобой я не хочу, пойду теперь я один.
- Как хочешь, любезный братец, - ответил солдат, - счастливой тебе дороги.
И пошел святой Петр другим путем, а Брат-Весельчак подумал: "Да оно и к лучшему, что он от меня убрался, удивительный, надо сказать, святой".
И хотя у солдата денег было достаточно, но обращаться он с ними не умел, порастратил, пораздарил их, и спустя некоторое время у него опять ничего не оказалось. А пришел он в то время в одну страну и услыхал, что там умерла королевна. "Хе-хе, - подумал он, - будет мне удача, я ее воскрешу и уж велю уплатить себе как следует". Явился он к королю и предложил ему воскресить умершую. А король слышал, что ходит какой-то отставной солдат и воскрешает мертвых, и подумал, что Брат-Весельчак и есть тот самый человек; но так как он ему не доверял, то спросил сперва у своих советников, и те сказали, что он может рискнуть, - все равно, мол, дочь его мертвая.
Вот велел Брат-Весельчак налить в котел воды и всем из комнаты выйти. Разрубил он умершую королевну на части, бросил их в воду, развел огонь так же, как, видел он, делал это святой Петр. Начала вода кипеть, и отвалилось мясо, вынул он из котла кости и разложил их на столе; но он не знал, в каком порядке их класть, и все их перепутал. Стал он перед костями и говорит: "Во имя пресвятой троицы, мертвая, встань!" Проговорил он это трижды, но кости никак не пошевелились. Произнес он тогда эти слова еще трижды, но все было понапрасну.
- Ну, чертова девка, вставай, - крикнул он, - а не то тебе плохо придется!
Только он это вымолвил, как вдруг влезает в окошко святой Петр в прежнем образе отставного солдата и говорит:
- Эй, нечестивец, ты что это тут затеял? Как может мертвая встать, если ты все кости у ней перепутал?
- Любезный братец, да я ведь старался, как мог, - ответил он.
- Ну, на этот раз я тебя из беды выручу; но должен тебе сказать, что если ты еще затеешь что-нибудь подобное, попадешь в большую беду. А кроме того, не смей ты просить или брать что-нибудь у короля.
Сложил святой Петр кости в должном порядке и трижды промолвил:
"Во имя пресвятой троицы, мертвая, встань", - и королевна встала, и была здорова и так же прекрасна, как прежде. Вышел потом святой Петр снова через окошко. Обрадовался Брат-Весельчак, что все так хорошо обошлось, но досадно ему стало, что не должен он ничего брать. "Хотелось бы мне знать, - подумал он, - что это у него за такие причуды, - одной рукою дает, а другой отбирает; нету в этом никакого смысла". Предложил король Брату-Весельчаку просить у него, что он пожелает. Солдат не мог ничего принять, но все-таки хитростью и намеками он устроил так, что король велел отсыпать ему полный ранец золота, с тем и отправился он дальше. Выходит солдат, а у ворот стоит святой Петр и говорит:
- Ишь, что ты за человек, ведь я же тебе запретил что-либо брать, а ты вот полный ранец золота набрал!
- А я-то при чем, - ответил Брат-Весельчак, - если мне его сунули.
- А я тебе говорю, чтобы ты в другой раз подобных вещей не делал, а не то плохо тебе придется.
- Э, брат, да ты уж об этом не беспокойся: теперь есть у меня золото, чего мне сейчас перемываньем костей заниматься!
- Да, - сказал святой Петр, - но долго ли золото продержится! А чтоб ты не вступал опять на неуказанный путь, дам я твоему ранцу силу, чтобы все, чего ты ни пожелаешь, в нем и оставалось. Прощай, теперь меня больше не увидишь.
- С богом! - сказал Брат-Весельчак, а сам подумал: "Я рад, что такой чудаковатый малый уходит, уж вслед за ним я не поплетусь". А про волшебную силу ранца он и думать перестал.
Побывал Брат-Весельчак со своим золотом повсюду; все его проиграл, просадил, поистратил, как и в первый раз. И осталось у него под конец денег всего лишь четыре крейцера. Проходил он как-то мимо харчевни и подумал: "Ну, конец моим денежкам" - и велел подать себе на три крейцера пива и хлеба на крейцер. Вот сидит он себе и пьет, а сам чует запах жареных гусей. Посмотрел-поглядел Брат-Весельчак кругом и видит, что хозяин двух гусей в духовке оставил. Вспомнил он тут, что говорил ему однажды его товарищ: если пожелает он что в ранце иметь, то у него и будет.
"Э, надо бы это на гусях испробовать!" Он вышел и говорит за дверьми:
- Хочу, чтоб два жареных гуся из духовки в ранец ко мне попали.
Только он это вымолвил, открывает ранец, смотрит - лежат в нем два гуся.
- Ох, это хорошо! - сказал он. - Ну, теперь я буду парень не промах, - он пошел на лужок и достал из ранца свое жаркое. Только начал он его уплетать, а в это время проходило двое мастеровых, и они поглядели на нетронутого целого гуся голодными глазами. Подумал Брат-Весельчак: "С меня и одного хватит", - подозвал он парней к себе и говорит:
- Ну нате, берите гуся и ешьте за мое здоровье.
Поблагодарили они и пошли с гусем в харчевню; велели подать себе полбутылки вина и хлеба, вытащили дареного гуся и принялись за еду. Смотрит хозяйка и говорит своему мужу:
- Там вон двое гуся едят; погляди-ка, не тот ли это самый, что был у нас в духовке.
Побежал хозяин, видит - а в духовке-то пусто.
- Ишь, какой воровской народ, на даровщинку есть гусей собираются! Сейчас же платите, а не то я вам прутьями бока начешу.
А те двое и говорят:
- Мы вовсе не воры, гуся подарил нам на том вон лугу один отставной солдат.
- Да вы мне головы не морочьте! Солдат здесь и правда был, но ушел он, как человек честный, за ним я следил. Вы - воры и должны платить.
Но им уплатить было нечем, - взял тогда хозяин палку и выгнал их из харчевни.
А Брат-Весельчак шел себе своею дорогой и пришел в одно место, где стоял красивый замок, а рядом с ним была плохая харчевня. Зашел он в ту харчевню, попросился переночевать, но хозяин ему отказал и объяснил:
- Места у меня больше свободного нету, дом полон знатных гостей.
- Вот так странное дело, - сказал Брат-Весельчак, - идут к вам, а не в богатый замок.
- Да, - ответил хозяин, - есть тому причина: кто ни пробовал в том замке поспать одну ночь, тот живой назад не возвращался.
- Что ж, если другие пробовали, - сказал Брат-Весельчак, - то и я хочу попробовать.
- Нет, вы лучше это дело бросьте, - сказал хозяин, - а то головой поплатитесь.
- Да, но ведь не сразу же и головой-то платиться, - сказал Брат-Весельчак, - вы мне только дайте ключи да еды повкусней и что-нибудь выпить.
Дал ему хозяин ключи, еды да питья, и пошел с тем Брат-Весельчак в замок; поел он вкусно и спать ему захотелось; лег на землю, кровати там не было. Вскоре он заснул, а ночью разбудил его страшный шум. Просыпается, видит - в комнате девять страшных чертей, сошлись вокруг него и плясать начали. А Брат-Весельчак и говорит:
- Пляшите себе, сколько вам влезет, а близко ко мне не подступайте.
Но стали черти напирать все ближе и ближе, и вот почти лезут уже своими мерзкими ногами в лицо.
- Потише, потише, чертовы привиденья, - сказал он; а те лезут, напирают все больше и больше. Разозлился тут Брат-Весельчак и как крикнет:
- Эй, вы, а не то я живо наведу порядок! - выхватил ножку стула и кинул в самую их середину.
Но девять-то чертей против одного солдата было чересчур многовато, и когда он колотил одного из передних, остальные хватали его за волосы и безжалостно их вырывали.
- Черт возьми, - кричал он, - сейчас мне туго придется, но погодите! Все девять в мой ранец, марш! - И - раз-два - кинулись они туда; захлопнул он ранец и бросил его в угол. Стало вдруг тихо, и Брат-Весельчак улегся снова и проспал до самого позднего утра.
Явился хозяин и тот дворянин, которому принадлежал замок, - хотелось им посмотреть, что тут с солдатом вышло. Увидали они его в полном здравии и веселым, удивились и спрашивают:
- Что, разве вам духи ничего не сделали?
- Еще чего не хватало! - ответил Брат-Весельчак. - Они все у меня уже в ранце. Вы можете теперь совершенно спокойно жить в своем замке; отныне ни один не будет там разгуливать.
Дворянин поблагодарил его, наградил щедро и предложил остаться у него на службе, хотел его обеспечить на всю жизнь.
- Нет, - ответил солдат, - я уж привык всюду бродить, пойду себе дальше.
И ушел оттуда Брат-Весельчак, зашел по пути в кузницу и положил ранец с девятью чертями на наковальню и попросил кузнеца и его подмастерьев ударить как следует. Ударили те изо всех сил большими молотами, и подняли черти жалобный вой. Открыл солдат ранец, глядь - лежат восемь из них мертвые, и только один, тот, что сидел в складке, остался в живых. Вылез черт оттуда и направился опять в ад.
Долгое время еще странствовал по свету Брат-Весельчак, и кто знает об этом, мог бы немало о том порассказать. Наконец стал он стар и подумал о смерти; вот направился он к одному отшельнику, известному своим благочестием, и говорит ему:
- Я от странствий устал, хотелось бы мне попасть в царство небесное.
Ответил отшельник:
- Есть два пути: один из них широкий и приятный, он ведет в ад, а другой узкий и трудный - и ведет он на небо.
"Был бы я дураком, - подумал Брат-Весельчак, - если бы вздумал идти узким и трудным путем".
Он собрался и двинулся по широкой, приятной дороге и подошел, наконец, к большим черным воротам, а были то врата ада. Постучался в них Брат-Весельчак; выглянул привратник посмотреть и узнать, кто там такой. Увидал он Брата-Весельчака, испугался, а был это как раз тот самый девятый черт, что сидел у солдата в ранце и выскочил из него с синяком под глазом. Поэтому он быстро задвинул засов, побежал к старшему черту и говорит:
- Стоит там один парень с ранцем за плечами, хочет сюда войти, но вы его ни за что не впускайте, а не то захочется ему весь ад в ранец упрятать. Был я однажды в том ранце, и здорово он меня молотом отколотил.
И крикнули Брату-Весельчаку, чтоб проваливал он оттуда, что его, мол, сюда не пустят никак.
"Если они не хотят, чтоб я у них был, - подумал он, - то надо мне будет посмотреть, не найду ли я пристанища себе на небе. Надо же мне где-нибудь да находиться".
Повернулся он и отправился дальше; шел он, пока не пришел к вратам рая, и постучался туда. Святой Петр как раз в это время сидел на страже у врат. Брат-Весельчак его тотчас узнал и подумал: "Вот и нашел я старого дружка, здесь дело пойдет лучше".
Но святой Петр сказал:
- Ты что, хочешь на небо попасть?
- Ты уж меня, братец, пусти, надо же мне где-нибудь да пристроиться. Если бы приняли меня в ад, то я сюда и не пришел бы.
- Нет, - сказал святой Петр, - тебе сюда не войти.
- Ну, раз не хочешь меня впускать, забирай тогда и свой ранец; раз так, то не хочу я иметь от тебя ничего, - сказал Брат-Весельчак.
- Что ж, давай его сюда, - сказал святой Петр.
Тогда солдат протянул ранец сквозь решетку на небо, а святой Петр взял его и повесил рядом со своим креслом.
И говорит тогда Брат-Весельчак:
- А теперь хочу я сам к себе в ранец попасть.
Шмыг - и был он уже там и сидел теперь на небе, и пришлось святому Петру там его и оставить.