Sự tích mặt trăng


Månen


Đất nước này có từ hồi mới khai thiên lập địa, ở đây ban đêm trời tối đen như mực, vì chẳng có trăng, sao chiếu sáng, bầu trời như một tấm thảm đen bao trùm khắp đất nước.
Một ngày kia có bốn chàng trai ở đất nước này rủ nhau đi chu du thiên hạ, họ tới một vương quốc khác, ở đây, sau khi mặt trời khuất núi thì thấy xuất hiện một quả cầu sáng dịu treo trên một cây sồi cổ đại. Ánh sáng tỏa chiếu khắp đất nước. Tuy không chói chang như ánh sáng mặt trời, nhưng dưới ánh sáng dịu ấy người ta cũng có thể nom rõ và phân biệt mọi vật.
Mấy khách bộ hành dừng chân đứng ngắm, họ hỏi một người nông dân đánh xe ngựa đi ngang, vật sáng đó là cái gì. Người kia đáp:
- Đó là mặt trăng. Ông trưởng thôn của chúng tôi mua ba Thalơ và đem treo ở đó. Hàng ngày ông ta phải đổ dầu và lau cho sạch để nó cháy đều và phát ra ánh sáng dịu. Ông ta nhận tiền công mỗi tuần một Thalơ.
Khi người nông dân đã đi khuất, một người trong bọn khách bộ hành nói:
- Loại đèn như thế này chắc chúng ta cũng cần, ở quê hương chúng ta cũng có một cây sồi cổ đại, chúng ta có thể treo nó lên cây. Vui sướng biết bao khi chúng ta không còn phải mò mẫm đi trong đêm.
Người thứ hai nói:
- Các anh có biết không, những người ở đây có thể đi mua cái khác về treo, chúng ta hãy mau mau lấy xe và ngựa chở ngay mặt trăng này đi.
Người thứ ba nói:
- Tôi trèo cây giỏi, để tôi trèo lên lấy nó xuống.
Người thứ tư dẫn xe và ngựa tới. Người thứ ba trèo lên cây, khoan một lỗ xuyên qua mặt trăng, lấy dây thừng xỏ buộc lại rồi thả nó xuống.
Khi quả cầu lóng lánh kia đã nằm gọn trên xe, họ lấy khăn phủ lên để cho không ai biết chuyện, họ lấy mặt trăng đem đi.
Họ đem được mặt trăng về nước mình một cách yên ổn và treo nó lên trên ngọn cây sồi cao. Ánh trăng chiếu sáng khắp cánh đồng, trong nhà ngoài ngõ tràn ngập ánh trăng, già trẻ lớn bé đều vui mừng. Những người tí hon đua nhau ra khỏi hang động để thưởng thức trăng, và trên thảo nguyên các thổ công xúng xính trong bộ quần áo đó cùng nhau dung dăng dung dẻ nhảy múa vòng tròn.
Bốn người hàng ngày lo đổ dầu, lau bồ hóng hàng tuần được lãnh tiền công.
Nhưng rồi cùng với năm tháng, họ trở nên già nua. Khi người thứ nhất ốm, biết mình không qua khỏi nên căn dặn mọi người mình muốn lấy một phần tư mặt trăng đem theo xuống chín suối. Sau khi người này chết, trưởng thôn trèo lên cây, lấy chiếc kéo tỉa cây cắt lấy một phần tư mặt trăng, đặt nó vào trong quan tài của người quá cố. Ánh trăng tuy không sáng như trước nhưng ít người nhận thấy điều đó. Khi người thứ hai qua đời, một phần tư khác cũng được cắt chia cho người đó. Ánh trăng không còn sáng tỏ nữa. Nhưng khi người thứ ba chết, một phần tư nữa lại bị cắt chôn theo cùng, giờ đây ánh trăng mờ ảo. Đến khi người thứ tư xuống mồ thì phần tư cuối cùng cũng được lấy xuống chôn cùng người quá cố. Giờ đây ban đêm lại tối đen như mực như khi trước kia. Mỗi khi đi đêm mọi người lại phải mang theo đèn nếu không thì lại cụng đầu vào nhau.
Ở dưới địa ngục lúc nào cũng tối tăm, bốn mảnh trăng kia được ghép lại thành một quả cầu sáng. Ánh trăng không chói chang như mặt trời, mà là ánh sáng dịu nên rất hợp với những cặp mắt của những người ở dưới địa ngục, họ động đậy, rồi thức tỉnh khỏi cơn ngủ triền miên. Họ vươn vai đứng dậy, trở nên vui tính và lại tiếp tục những nhịp điệu sống cũ của mình. Một số lại đi cờ bạc, nhảy múa, số khác lại đến các quán rượu vòi rượu uống, khi đã ngà ngà say thì bắt đầu cãi lộn làm huyên náo cả vùng, tiếp đến là rút gậy ăn mày ra đánh nhau. Tiếng huyên náo bởi cãi nhau và đánh lộn ngày càng to và vang xa, nó vang lên đến tận thiên đình.
Thánh Pétrus có nhiệm vụ canh giữ cổng trời nghe thấy huyên náo nghĩ rằng dưới địa ngục có nổi loạn. Thánh thổi tù và báo động tập hợp quân lính phòng khi quân ô hợp dưới địa ngục kéo lên thì đánh đuổi chúng xuống. Đợi mãi nhưng không thấy chúng kéo lên. Thánh Pétrus lên ngựa và phóng qua cửa trời xuống dưới địa ngục. Thánh dẹp yên và ra lệnh ai về mộ người ấy. Dẹp xong, thánh lấy mặt trăng đem theo về trời. Vì vậy mặt trăng treo trên trời như ngày nay chúng ta thấy.


Dịch: Lương Văn Hồng, © Lương Văn Hồng
I gamle dage var der et land, hvor der altid var helt mørkt om natten. Himlen lå over jorden som et sort tæppe, månen stod aldrig op, og der var ikke en eneste stjerne, som blinkede. Nattens lys var nemlig sluppet op dengang verden blev skabt. Engang gik fire, unge mænd, som boede her, på vandring. De kom til et andet rige, og om aftenen, da solen var sunket bag bjergene, så de, at der hang en strålende kugle i et egetræ. Den udbredte et mildt, dæmpet lys, og man kunne skelne alting, om end ikke så godt som ved solens lys. Vandringsmændene standsede og spurgte en bonde, som kom kørende forbi, hvad det var for et lys. "Det er jo månen," svarede han, "sognefogeden har købt den for tre daler og hængt den op i egetræet. Han må hver dag hælde olie på den og holde den ren, så den kan brænde klart. Til løn derfor får han en daler om ugen."
Da bonden var kørt bort, sagde en af mændene: "Den lampe kunne vi i grunden godt bruge. Vi har jo hjemme et egetræ, som er lige så stort, der kan vi jo hænge den. Hvor det vil blive dejligt, når vi ikke længere behøver at rode omkring i mørke om natten." - "Det er bedst, vi henter hest og vogn, og kører månen bort," sagde den anden, "de kan jo købe sig en anden." - "Jeg klatrer så godt," sagde den tredie, "jeg skal nok få den ned." Den fjerde hentede nu hest og vogn, og den tredie klatrede op i træet, borede hul i månen, trak et reb igennem og hejsede den ned. Da de havde lagt den strålende kugle på vognen, bredte de et klæde over, for at ingen skulle mærke tyveriet. De slap også lykkelig og vel hjem til deres land igen og hængte den op i en eg. Gamle og unge glædede sig, da den nye lampe sendte sine blide stråler ud over markerne og ind i husene. Dværgene kom ud af klippehulerne, og de små nisser med de røde huer dansede en runddans på engen.
De fire mænd hældte olie på månen, pudsede vægen og fik en daler om ugen for det. Men efterhånden blev de jo gamle, og da en af dem blev syg og mærkede, at døden nærmede sig, befalede han at den fjerdedel af månen, som var hans ejendom, skulle lægges i graven med ham. Da han var død, klatrede sognefogeden op i træet, klippede med en havesaks en fjerdedel af og lagde den ned i kisten. Månen lyste nu ikke mere så godt, men man mærkede det dog ikke ret meget. Da den anden døde, fik han også en fjerdedel med sig, og så lyste den jo mindre endnu. Og da den tredie ligeledes fik sin del med, blev lyset ganske svagt, og da den fjerde døde, blev det lige så mørkt, som det havde været før. Når folk om aftenen gik ud uden lygter, løb de på hinanden.
Men da månen nede i underverdenen igen blev sat sammen, blev de døde urolige og vågnede, for der havde jo ellers været helt mørkt. De blev meget forbavsede, da de igen kunne se. Månens stråler var stærke nok, for deres øjne var jo blevet svækket, så de havde ikke engang kunnet tåle sollyset. De stod nok så glade op og begyndte at leve på deres gamle maner. Nogle gik til spil og dans, andre strømmede til værtshusene og drak vin, så de blev fulde, larmede og skændtes, og tog deres knipler frem og gav sig til at slås. Larmen blev værre og værre, og til sidst kunne den høres helt op i himlen.
Peter, som sidder på vagt ved himmelens port, troede, at der var oprør i underverdenen, og kaldte de himmelske hærskarer sammen, for at de skulle jage den onde tilbage, hvis han ville prøve på at storme de saliges himmel. Da der ikke kom nogen, satte han sig op på en hest og red ned til underverdenen. Han bragte så igen ro til veje blandt de døde og befalede dem at lægge sig i deres grave. Månen tog han med sig og hængte den op på himlen.